Sign In

AI LÀM THẤT THOÁT SỐ TIỀN 190.255.289đ ?

02/11/2018

Bản án số 02/2016/DS-ST ngày 14 tháng 4 năm 2016 của Tòa án nhân dân (TAND) huyện K tuyên xử buộc ông Ngô Quốc Th phải trả cho Ngân hàng N  các khoản nợ vay độc lập có thế chấp tài sản gồm: khoảng nợ gốc 40.000.000đ và lãi đến ngày xét xử tổng cộng là 54.490.760đ, có tài sản thế chấp diện tích đất 167m2; khoảng nợ gốc 380.000.000đ và lãi đến ngày xét xử tổng cộng là 509.243.529đ, có tài sản thế chấp là 01 căn nhà có diện tích đất ở là: 114,1m2.

Ngày 19/05/2016 Ngân hàng N có đơn yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của ông Ngô Quốc Th để thi hành án. Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) huyện K đã ban hành Quyết định thi hành án và giao cho các đương sự đúng trình tự và thời hạn. Do người phải thi hành án không tự nguyện thi hành, theo yêu cầu của Ngân hàng N, Chấp hành viên được phân công thụ lý vụ việc đã ban hành Quyết định cưỡng chế, kê biên tài sản thế chấp của ông Ngô Quốc Th. Ngày 22/06/2016 thực hiện kê biên tài sản thế chấp là 01 căn nhà và diện tích đất 114,1m2 có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số BA174839; ngày 15/08/2016 thực hiện kê biên tài sản thế chấp là diện tích đất 167m2, tuy nhiên trong quá trình đo đạc thực tế phát hiện diện tích đất ông Ngô Quốc Th  đang sử dụng là 357,5m2, trong đó có 167m2 đất đã được cấp (GCNQSDĐ) số AN758008 và là tài sản thế chấp cho ngân hàng, còn lại 190,4m2 đất chưa được cấp giấy nhưng ông Thanh đang sử dụng và có tranh chấp với những người giáp ranh. Tuy nhiên Chấp hành viên vẫn thực hiện kê biên luôn phần diện tích đất 190,4m2 chưa được cấp GCNQSDĐ và không thế chấp Ngân hành của ông Th.

Trong quá trình tổ chức thi hành án, Ông Ngô Quốc Th có nguyện vọng xin chuộc lại tài sản thế chấp là diện tích đất 167m2 có GCNQSDĐ số AN758008 và giữa ông h và Ngân hàng đã thoả thuận ông Th phải trả 57.535.000đ, (trong đó lãi theo hợp đồng tín dụng đến ngày thanh toán nợ là 3.044.240đ) thì Ngân hàng sẽ trả lại tài sản thế chấp. Thực hiện thoả thuận, ông Th đã đến Chi cục THADS nộp đủ số tiền 57.535.000đ, đồng thời Chấp hành viên đã giải toả kê biên diện tích đất 357,5m2 thực hiện kê biên ngày 15/08/2016. Ông Th đã nhận lại GCNQSDĐ số BA174839 nhưng sau đó bán toàn bộ diện tích 357,5m2, (trong đó có 167m2 đất đã được cấp GCNQSDĐ) cho người khác và làm xong thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.

Đối với khoản nợ vay 380.000.000đ và lãi đến ngày xét xử là 509.243.529đ, do ông Th không có khả năng trả nợ, tài sản thế chấp đã kê biên được định giá là 427.635.000đ, Chấp hành viên thực hiện việc bán đấu giá công khai tài sản kê biên được 430.000.000đ, sau khi trừ các khoản án phí, chi phí vv...chỉ còn lại 315.999.000đ để thi hành án, số tiền còn lại phải thi hành là 190.255.289đ. Hiện ông Th không còn tài sản để thi hành án và Chi cục THADS huyện K đã ban hành Quyết định chưa có điều kiện thi hành án đối với khoản tiền 190.255.289đ.

Do có dư luận và đơn tố cáo, Cơ quan chức năng huyện K đã tiến hành kiểm tra và kết luận Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án không xử lý tài sản là 190,4m2 đất chưa được cấp giấy CNQSDĐ của ông Thanh dẫn đến gây thất thoát cho Ngân hàng N 190.255.289đ.

Xem xét vấn đề nêu trên trong góc độ nghiệp vụ thi hành án dân sự và quy định pháp luật, đánh giá Chấp hành viên Chi cục THADS huyện K có trách nhiệm thế nào đối với khoản tiền 190.255.289đ ?

Căn cứ các quy định pháp luật và trên cơ sở nội dung vụ việc nhận thấy.

Sau khi nhận đơn yêu cầu thi hành án về thi hành 02 khoản nợ vay là 563.734.289đ (54.490.760đ + 509.243.529đ) bằng việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ của Ngân hàng N, Chi cục THADS huyện K đã ban hành Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu, do ông Th không tự nguyện thi hành án, Chấp hành viên đã ban hành quyết định cưỡng chế kê biên tài sản thế chấp để thi hành án đúng quy định pháp luật.

Vấn đề ở chỗ, việc thực hiện kê biên và giải quyết cho ông Th chuộc lại tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất 167m2 đã được cấp GCNQSDĐ số AN758008 có đúng quy định pháp luật hay không ? Cơ quan Thi hành án có quyền kê biên và bán đấu giá diện tích đất 190,4m2 của ông Th nhưng chưa được cấp giấy CNQSDĐ hay không?

  - Theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 7, Luật THADS, người được thi hành án có quyền “Yêu cầu thi hành án, đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định, áp dụng biện pháp bảo đảm, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định trong Luật này”, và nội dung của Quyết định thi hành án do Cơ quan THADS ban hành phải đúng nội dung theo đơn yêu cầu của người phải thi hành án và trong phạm vi bản án của Toà án đã tuyên xử. Trong trường hợp này, Ngân hàng N chỉ yêu cầu Cơ quan THADS xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay và lãi quá hạn theo hợp đồng tín dụng trên số tiền chậm thi hành, do đó việc Chấp hành viên ban hành Quyết định cưỡng chế, kê biên tài sản thế chấp của ông Ngô Quốc Th là đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện kê biên tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất 167m2 đã được cấp GCNQSDĐ số AN758008, Chấp hành viên thực hiện kê biên thực tế diện tích đất 190,4m2 của ông Th nhưng chưa được cấp giấy CNQSDĐ và không đúng nội dung yêu cầu thi hành án của Ngân hàng N và trái pháp luật do không đúng với nội dung của Quyết định kê biên tài sản đã ban hành.

  - Theo quy định tại khoản 5, Điều 101, Luật THADS thì “Trước khi mở cuộc bán đấu giá 01 ngày làm việc, người phải thi hành án có quyền nhận lại tài sản nếu nộp đủ tiền thi hành án và thanh toán các chi phí thực tế, hợp lý đã phát sinh từ việc cưỡng chế thi hành án, tổ chức bán đấu giá”. Đồng thời tại khoản 1, Điều 6 Luật THADS cũng quy định “Đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thỏa thuận được công nhận”. Do diện tích đất 167m2 có GCNQSDĐ số AN758008 thế chấp vay theo 01 hợp đồng tín dụng độc lập nên ông Th có quyền nhận lại tài sản theo quy định tại Điều 101, Luật THADS, hoặc thoả thuận với Ngân hàng N việc thanh toán nợ.  Thực tế ông Th đã chọn phương thức thoả thuận với Ngân hàng N là trả hết nợ vay và lãi theo hợp đồng tín dụng đến ngày thanh toán nợ vay, và thoả thuận này cũng phù hợp quy định tại Điều 101, Luật THADS. Trong trường hợp này, việc thoả thuận và thực hiện thoả thuận đúng quy định pháp luật.

Tuy nhiên, sau khi bán đấu giá tài sản thế chấp của khoảng vay 380.000.000đ và lãi đến ngày xét xử là 509.243.529đ, tiền bán tài sản không đủ để thi hành án (sau khi trừ các chi phí theo quy định) và số tiền còn phải thi hành là 190.255.289đ.

Để xác định trách nhiệm gây thất thoát số tiền còn phải thi hành là 190.255.289đ của Ngân hàng N, cần xem lại việc thực hiện các quyền theo quy định pháp luật về thi hành án dân sự.

Như phần trên đã phân tích, người được thi hành án có quyền “Yêu cầu thi hành án, đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định, áp dụng biện pháp bảo đảm, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định trong Luật này” theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 7, Luật THADS. Tuy nhiên, Ngân hàng N mới chỉ làm đơn yêu cầu Cơ quan THADS xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay, do đó Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan THADS tiếp tục thi hành khoảng tiền còn lại chưa thi hành là 190.255.289đ và lãi quá hạn theo hợp đồng tín dụng trên số tiền chậm thi hành bằng việc cưỡng chế kê biên các tài sản khác ngoài tài sản đã thế chấp vay ngân hàng, nếu còn thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30, Luật THADS. Đồng thời khi xử lý tài sản khác ngoài tài sản đã thế chấp vay ngân hàng (nếu có), Ngân hàng N không được ưu tiên thanh toán theo khoản 3, Điều 47, Luật THADS. Thực tế, ông Th còn tài sản là 190,4m2 nhưng chưa được cấp giấy CNQSDĐ như đã nêu và thời hiệu thi hành án còn nhưng Ngân hàng không yêu cầu nên Cơ quan THADS không thể tổ chức kê biên, cưỡng chế tài sản này của ông Th.

Hiện nay diện tích đất 190,4m2 đã chuyển nhượng hợp pháp cho người khác, nếu Ngân hàng N tiếp tục yêu cầu Cơ quan THADS huyện K cưỡng chế tài sản này để thi hành khoản tiền còn lại là 190.255.289đ và lãi quá hạn theo hợp đồng tín dụng trên số tiền chậm thi hành được hay không?

Theo quy định pháp luật, nếu Ngân hàng N tiếp tục có đơn yêu cầu thi hành án (trong thời gian còn thời hiệu thi hành), Cơ quan THADS huyện K phải ban hành quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu. Đối với tài sản là diện tích đất 190,4m2 của ông Th đã chuyển nhượng, Cơ quan THADS áp dụng khoản 1, Điều 24, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để ra quyết định kê biên đồng thời thông báo cho các đương sự và người có liên quan (người chuyển nhượng đất của ông Th) khởi kiện ra Toà án hoặc đề nghị Cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại Điều 75, Luật THADS. Việc tổ chức thi hành án sẽ căn cứ phán quyết của Toà án hoặc kết quả giải quyết vụ việc của Cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật. Trong trường hợp qua  xác minh điều kiện thi hành án mà ông Th không còn tài sản và thu nhập không đảm bảo thi hành án thì Cơ quan THADS cần ra Quyết định chưa có điều kiện thi hành án đối với khoản tiền 190.255.289đ và lãi quá hạn theo hợp đồng tín dụng trên số tiền chậm thi hành.

Từ nội dung và phân tích nêu trên có thể nhận thấy Chấp hành viên không phải là người chịu trách nhiệm gây thất thoát khoản tiền 190.255.289đ và lãi quá hạn theo hợp đồng tín dụng trên số tiền chậm thi hành của Ngân hàng N.

Trong quá trình giải quyết vụ việc, có một vấn đề khác đặt ra trong quá trình tổ chức thi hành án cho các tổ chức tín dụng, ngân hàng: Trong trường hợp các tổ chức này chỉ yêu cầu xử lý tài sản thế chấp nhưng tài sản thế chấp không đủ thanh toán nợ vay và lãi, nếu hết thời hiệu thi hành án theo Điều 30, Luật THADS, Cơ quan THADS cần ban hành  quyết định về thi hành án nào, nếu người phải thi hành án vẫn còn tài sản khác ngoài tài sản thế chấp vay Ngân hàng ? Quan điểm của tác giả bài viết cho rằng do các tổ chức tín dụng, ngân hàng không còn quyền yêu cầu thi hành án và tài sản thế chấp đã xử lý hết, Cơ quan THADS cần ra quyết định đình chỉ thi hành án. Tuy nhiên vướng mắc hiện nay là Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định và hướng dẫn về nội dung này.

Rất mong được sự trao đổi, tranh luận và góp ý kiến về quan điểm trong bài viết, các vấn đề cần trao đổi đề nghị gửi đến mail, địa chỉ ngvnhung@gmail.com.

Trân trọng cảm ơn./.
 
                                                                                       Văn Hùng - Phòng 11, VKSND tỉnh Kiên Giang

Các tin đã đưa ngày: