Một vài ý kiến trao đổi về bài viết “nghiên cứu trao đổi nghiệp vụ về bảo lãnh cho người cho vay phải chịu chi phí cưỡng chế không”

Theo quan điểm của tôi, để giải quyết khúc mắc của vấn đề này, trước hết cơ quan thi hành án dân sự phải xác định chính xác ai là người phải thi hành án. Bản án số 06/KDTM-ST của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ông Mai Văn Vẻ - Đông Du - Đào Viên - Quế Võ - Bắc Ninh và Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á đã tuyên “ Buộc ông Mai văn Vẻ phải trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á tổng số tiền 243.800.000đ. Nếu ông Vẻ không trả thì phát mại toàn bộ tài sản thế chấp là QSDĐ của ông Nguyễn Quang Đáp - thôn Bồng lai - xã Bồng Lai - Quế Võ - Bắc Ninh  là tài sản ông Đáp bảo lãnh cho khoản vay của ông Vẻ để đảm bảo việc thi hành án”. Như vậy, chúng ta phải xác định trong trường hợp này, ông Mai Văn Vẻ là người phải thi hành án, ông Nguyễn Quang Đáp là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan- là người có nghĩa vụ phải dùng tài sản của mình để đảm bảo việc thi hành án của ông Mai Văn Vẻ. Ngoài khoản tiền phải trả cho người được thi hành án là Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á còn có 2 khoản tiền phải thi hành án đó là khoản án phí 12.000.000 đồng và khoản chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự.

Nghiên cứu trao đổi nghiệp vụ: “Chấp hành viên kê biên tài sản có đảm bảo?”

Tại Quyết định thoả thuận số 13 ngày 26/4/2010 Toà án đã công nhận thoả thuận buộc bà K phải trả ông N số tiền 200.000.000đ. Vì bà K không trả ông N theo thoả thuận ngày 05/05/2012 ông N làm đơn đề nghị thi hành án và để chứng minh bà K có điều kiện thi hành án ông N đã cung cấp bà K có 01 mảnh đất sổ đỏ mang tên bà H bà đã bán cho bà K quá trình giải quyết việc ông N và bà K tại Toà án đã nhiều lần bà K đề nghị gán cho ông N mảnh đất trên nhưng vì bà K tính giá quá cao lên ông N không chấp nhận.

Nghiên cứu trao đổi nghiệp vụ về  “Bảo lãnh cho người vay có phải chịu chi phí cưỡng chế không”

Tại Bản án số 06/KDTM-ST của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ông Mai Văn Vẻ - Đông Du - Đào Viên - Quế Võ - Bắc Ninh và Ngân hàng TMCP Đông á tại phần Quyết định bản án tuyên “ Buộc ông Mai văn Vẻ phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền 243.800.000đ

Thẩm quyền đề nghị miễn thi hành khoản tiền phạt còn lại theo khoản 2 Điều 58, khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hình sự - Còn chưa rõ ràng.

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, miễn, giảm mức hình phạt đã tuyên thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội khi đáp ứng đầy đủ một số điều kiện nhất định. Chính sách này của Nhà nước nhằm khuyến khích người bị kết án cải tạo tốt, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra. Việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự cũng không nằm ngoài ý nghĩa và mục đích nói trên. Tuy nhiên, đứng trên góc độ các quy định của pháp luật hiện nay liên quan đến việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Xin nêu ra một số bất cập và phân tích để các đồng nghiệp cùng trao đổi.

Việc thi hành khoản khoản thu cho ngân sách nhà nước không thể thi hành được - Cần một giải pháp mạnh

Thi hành án dân sự là một hoạt động quan trọng nhằm hiện thực hóa kết quả của quá trình tố tụng và giải quyết tranh chấp trong thực tiễn. Do đó, tổ chức thi hành dứt điểm bản án, quyết định có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội, góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Trong những năm qua, nhất là từ khi Luật Thi hành án dân sự được ban hành, công tác thi hành án dân sự đã có những chuyển biến tích cực, kết quả thi hành án năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt, trong 3 năm gần đây, mặc dù số lượng việc phát sinh mới hàng năm không ngừng tăng lên, nhưng dưới sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Bộ Tư pháp và sự cố gắng, nỗ lực phấn đấu trong thực hiện nhiệm vụ của toàn thể chấp hành viên, thẩm tra viên, cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự, kết quả thi hành xong về việc, về tiền nói chung, số việc, tiền thu cho ngân sách nhà nước nói riêng so với số việc, số tiền có điều kiện thi hành hàng năm luôn vượt chỉ tiêu giao (năm 2009 kết quả về việc đạt 78,72%, về tiền đạt 67,08%; năm 2010 kết quả về việc đạt 86,35%, về tiền đạt 80,1%; năm 2011 kết quả về việc đạt 87,96%, về tiền đạt 76,1%. Tuy nhiên, trong thực tế mặc dù được Đảng, Nhà nước quan tâm, các cơ quan Thi hành án dân sự tích cực tổ chức thi hành bản án, quyết định nhưng kết quả thực tế việc thi hành án vẫn chưa đáp ứng được mong muốn của xã hội, số lượng bản án chưa được thi hành hàng năm vẫn chiếm một tỷ lệ lớn trong số phải thi hành nhưng chưa được thi hành dứt điểm. Theo báo cáo của các cơ quan Thi hành án dân sự địa phượng, hiện nay trong toàn quốc còn 289.399 việc với 27.959.050.258 nghìn đồng chưa tổ chức thi hành xong (bao gồm cả việc thi hành cho công dân, cơ quan, tổ chức và thu cho ngân sách nhà nước).

Vướng mắc trong việc yêu cầu định giá lại tài sản

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2009 và các văn bản hướng dẫn thi hành được ban hành đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong công tác thi hành án, khắc phục được những hạn chế, bất cập của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, đồng thời góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, quá trình thực hiện Luật Thi hành án dân sự năm 2008 vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập.

Những khó khăn, vướng mắc liên quan đến thủ tục nộp đơn yêu cầu thi hành án dân sự và xác minh điều kiện thi hành án dân sự

Ngày 14/11/2008, Quốc hội thông qua Luật Thi hành án dân sự (viết tắt là Luật Thi hành án dân sự, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2009, thay thế Pháp lệnh Thi hành án dân sự  năm 2004. Trong thời gian qua, Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành đã phát huy được vai trò, vị trí của mình trong hệ thống pháp luật nói chung và trong thực tiễn công tác thi hành án dân sự nói riêng, có tác động tích cực và hiệu quả đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng còn những quy định gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, làm hạn chế kết quả thi hành án. Trong số các quy định này, tôi xin đề cập đến quy định, thủ tục thi hành án theo đơn yêu cầu, xác minh điều kiện thi hành án.

Một vài ý kiến về việc thi hành án có liên quan đến lãi suất chậm thi hành án đối với vàng

Hiện nay, trong thực tiễn việc tổ chức thi hành án, một số cơ quan Thi hành án dân sự gặp phải một số vướng mắc liên quan đến lãi suất chậm thi hành án đối với vàng. Đó là trường hợp trong Bản án của Toà án chỉ tuyên khoản lãi suất chậm thi hành án đối với tiền mà không tuyên khoản lãi suất chậm thi hành án đối với vàng mà người được thi hành án làm đơn yêu cầu thi hành cả khoản lãi suất chậm thi hành án đối với vàng. Tôi xin đưa ra một vài luận điểm để giải quyết tình huống này như sau:

Đóng góp sửa đổi Luật Thi hành án dân sự năm 2008

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội thông qua ngày 14/11/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009. Sau khi Luật Thi hành án dân sự được ban hành, ngày 29/12/2008 Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 2425/QĐ-BTP về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Luật Thi hành án dân sự và Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật này, Chính phủ, các Bộ, ngành đã ban hành hơn 20 văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự. Luật thi hành án dân sự năm 2008 ban hành trên cơ sở kế thừa những quy định phù hợp của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, bổ sung những vấn đề thực tiễn và dự liệu những vấn đề phát sinh để kịp thời điều chỉnh, áp dụng. Tuy nhiên, sau hai năm triển khai thực hiện, Luật thi hành án dân sự đã bộc lộ một số hạn chế cần được sửa đổi cho phù hợp với tình hình hiện nay.

Luật Thi hành án dân sự có nhiều tác động tích cực nhưng còn hạn chế, vướng mắc

Ngày 14/11/2008, Quốc hội nước ta thông qua Luật THADS và Nghị quyết thi hành Luật này, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2009. Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân và chỉ đạo các cơ quan Tư pháp, THADS địa phương triển khai nhiều biện pháp thực hiện Luật THADS. Các cơ quan THADS địa phương và trong quân đội đã tiến hành sơ kết hai năm thi hành Luật THADS gửi báo cáo về Bộ Tư pháp. Bộ Tư pháp đã tổ chức 03 Đoàn khảo sát tại 03 miền gồm 09 địa phương là thành phố Hồ Chí Minh, Long An, An Giang, Đà Nẵng, Bình Định, Quảng Ngãi, Hà Nội, Hải Phòng và Hải Dương.