Khái niệm, đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự

31/10/2017
1. Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự
Cho thấy đến nay vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau về thi hành án. Loại quan điểm thứ nhất cho rằng thi hành án là hoạt động tố tụng. Song, thi hành án là hoạt động tố tụng nào và nằm ở giai đoạn nào của quá trình tố tụng thì lại có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, thi hành án là một giai đoạn tố tụng và là công đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng (Tờ trình số 31/TTr-CP ngày 04/04/2008 của Chính phủ về “Dự án Luật thi hành án dân sự”, tr.1.). Ý kiến khác cho rằng, thi hành án là một thủ tục tố tụng đặc biệt mang cả đặc trưng của tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính, thi hành án vừa tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, vừa biểu hiện tính cưỡng chế của Nhà nước.



Có ý kiến lại cho rằng, thi hành án thuộc loại tố tụng "hỗn hợp" vì "thi hành án có rất nhiều trình tự, thủ tục và đặc trưng giống các loại tố tụng khác". Loại quan điểm thứ hai, coi thi hành án là hoạt động quản lý hành chính - tư pháp thì cho rằng, quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Toà án chấm dứt khi Toà án ra phán quyết nhân danh Nhà nước, trong đó Toà án đã xác định quyền, nghĩa vụ của các bên, còn việc thi hành phán quyết đó lại là một giai đoạn khác, không thuộc quá trình tố tụng. thi hành án không phải là giai đoạn tố tụng, bởi vì thi hành án có mục đích khác với mục đích tố tụng; tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật, còn thi hành án là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật[1]. Loại quan điểm thứ ba cho rằng, thi hành án là hoạt động tư pháp nên phải gắn với khâu hoạt động xét xử để tạo một cơ chế chặt chẽ và có hiệu quả[2] nhằm đưa ra và đảm bảo thi hành các bản án, quyết định của Toà án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật. 
Mỗi loại quan điểm nêu trên đều có những cơ sở khoa học riêng, tuy nhiên theo tác giả thì thi hành án là một thủ tục tố tụng và chỉ cần xác định thi hành án là thủ tục tố tụng thi hành án, không nên coi đó là một giai đoạn của thủ tục tố tụng hình sự, dân sự, hành chính hay tố tụng khác và cần hiểu thi hành án là thủ tục tố tụng độc lập so với các thủ tục tố tụng khác như điều tra, kiểm sát hoặc xét xử. “Tố tụng” không nên hiểu chỉ là "thưa kiện tại Toà án nói chung"[3], là hoạt động của cơ quan Toà án xét xử để đi tìm “chân lý”, mà cần xem xét đến bản chất của tố tụng. Về bản chất, thực ra tố tụng chỉ là việc thực hiện các quy định của pháp luật hình thức theo thủ tục nhất định để giải quyết các quan hệ xã hội theo đúng sự điều chỉnh của pháp luật nội dung. Tố tụng được thực hiện bởi nhiều cơ quan, tuỳ theo tính chất và mức độ do pháp luật quy định. Hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, cơ quan thi hành án nói riêng nhằm mục đích bảo đảm để bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác được thực thi trên thực tế. Hoạt động nào tuân theo thủ tục do pháp luật hình thức quy định là hoạt động tố tụng, do đó có nhiều loại tố tụng, như: Tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng hành chính, tố tụng trọng tài, tố tụng thi hành án.
Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm thi hành án là thủ tục tố tụng do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành để thi hành bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước, tổ chức khác do pháp luật quy định, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và cá nhân. thi hành án dân sự là thủ tục tố tụng thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án và các quyết định khác về dân sự theo quy định của pháp luật.
Từ nhận định trên, để làm rõ khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự cần tìm hiểu về bản chất của cưỡng chế. Theo cuốn Đại Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (chủ biên), Trung tâm Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo do Nhà xuất bản Văn hóa thông tin ấn hành năm 1998 thì cưỡng chế là “bắt buộc phải tuân theo bằng sức mạnh quyền lực: tính chất cưỡng chế của pháp luật[4]. Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành 2001 thì “cưỡng chế là dùng quyền lực nhà nước bắt buộc người khác phải tuân theo[5]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam tập 1 xuất bản năm 1996 thì cưỡng chế là “dùng quyền lực của Nhà nước để bắt buộc người khác thực hiện những việc làm trái với ý muốn của họ. Cưỡng chế là một trong những phương pháp chủ yếu của hoạt động quản lý nhà nước[6]. Về mặt thuật ngữ pháp lý, theo cuốn Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa ấn hành năm 1999 thì cưỡng chế là “những biện pháp bắt buộc cá nhân hay tổ chức phải thực hiện và phục tùng mệnh lệnh nhất định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”[7]. Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa và Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2006 thì cưỡng chế là “buộc cá nhân hay tổ chức phải phục tùng một mệnh lệnh, thực hiện một nghĩa vụ, trách nhiệm theo quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chỉ tổ chức hay cá nhân được pháp luật quy định mới được ra quyết định cưỡng chế, quyết định lực lượng cưỡng chế. Cưỡng chế phải được tiến hành theo thủ tục, trình tự chặt chẽ. Cá nhân hay tổ chức là đối tượng cưỡng chế có thể bị buộc phải làm hay không được làm một việc nhất định về quyền tài sản hay quyền nhân thân. Biện pháp sử dụng trong cưỡng chế là bạo lực về mặt vật chất hoặc tinh thần, thường được áp dụng khi quyết định đã có hiệu lực không được thực hiện một cách tự nguyện”[8].
Như vậy, các ý kiến không hoàn toàn đồng nhất về khái niệm cưỡng chế, tuy nhiên có thể thấy rằng nói đến cưỡng chế là nói đến việc dùng quyền lực nhà nước, áp đặt ý chí của Nhà nước đối với tổ chức, cá nhân nhất định để buộc tổ chức, cá nhân đó phải thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định theo ý chí của Nhà nước. Quyền lực nhà nước được sử dụng với nhiều phương thức khác nhau, theo nhiều lĩnh vực thông qua những biện pháp nhất định và do chủ thể nhất định tiến hành. Chủ thể đó có thể là công chức nhà nước hoặc cá nhân, tổ chức khác được Nhà nước trao quyền tiến hành cưỡng chế. Tuy nhiên, việc dùng quyền lực nhà nước để cưỡng chế cũng phải được thực hiện trên cơ sở các quy định cụ thể của pháp luật, với phương thức thực thi pháp luật phù hợp.
Để bảo đảm thực thi pháp luật, ngoài phương thức giáo dục, thuyết phục mọi chủ thể tự giác tuân thủ, bất kỳ Nhà nước nào cũng sử dụng sức mạnh cưỡng chế bằng pháp luật. Cưỡng chế là khái niệm thuộc phạm trù Nhà nước và pháp luật, là hiện tượng gắn liền với Nhà nước[9]. Quyền lực nhà nước là quyền lực dựa trên sức mạnh của Nhà nước, khả năng sử dụng Nhà nước thực hiện ý chí của giai cấp thống trị buộc xã hội phải phục tùng ý chí đó; quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị được thực hiện bằng Nhà nước và là trung tâm của quyền lực chính trị bởi vì Nhà nước là tổ chức rộng lớn nhất, bao trùm lên toàn bộ xã hội, quản lý mọi tầng lớp dân cư trong phạm vi lãnh thổ của mình[10]. Như vậy, cưỡng chế là dùng quyền lực nhà nước buộc tổ chức, cá nhân nhất định phải tuân theo, đó là một phương thức sử dụng và bảo đảm cho quyền lực nhà nước được thực hiện bởi biện pháp nhất định và do chủ thể có thẩm quyền tiến hành.
Vậy cưỡng chế thi hành án dân sự có bản chất là gì? Đây là vấn đề cần làm sáng tỏ. Theo nghiên cứu thì quyền lực nhà nước được bảo đảm thực hiện bởi nhiều loại hình cưỡng chế, được quy định thành pháp luật, như: cưỡng chế hành chính, cưỡng chế thi hành án hình sự, cưỡng chế thi hành án dân sự. thi hành án được phân chia thành nhiều loại, như: thi hành án hình sự, thi hành án hành chính, thi hành án dân sự. Mỗi loại thi hành án có cách thức, trình tự, thủ tục tiến hành đặc thù ngoài những trình tự, thủ tục chung của quá trình thi hành án. Trong các loại thi hành án thì hệ thống tổ chức, thẩm quyền và trình tự, thủ tục thi hành án không hoàn toàn giống nhau. thi hành án hành chính có phần thi hành khoản tiền, tài sản và phần đôn đốc, theo dõi thi hành án hành chính, vì thế, hình thức, mức độ và thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế cũng khác nhau. Đối với thi hành án hình sự, theo quy định tại Điều 30 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó[11]. Việc thi hành các hình phạt cũng đồng nghĩa với việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người bị kết án thi hành hình phạt. Cưỡng chế thi hành án hình sự mang tính tuyệt đối, đối tượng cưỡng chế thi hành hình phạt có thể là quyền tự do thân thể, tài sản, thậm chí cả tính mạng của người bị kết án.  
thi hành án dân sự là thi hành bản án, quyết định về dân sự của Tòa án và cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Thủ tục là “những việc cụ thể phải làm theo một trình tự quy định để tiến hành một công việc có tính chất chính thức"[12]; trình tự là “sự sắp xếp lần lượt, thứ tự trước sau"[13]; như vậy, thủ tục là việc thực hiện công việc nhất định theo những quy định cụ thể được sắp xếp theo trình tự nhất định. Vì thế, thủ tục thi hành án dân sự là trình tự thi hành bản án, quyết định của Tòa án và quyết định của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Thủ tục thi hành án dân sự thực hiện thông qua nhiều công việc, mỗi công việc cụ thể của thủ tục thi hành án dân sự được tiến hành theo thủ tục riêng, từ khi nhận yêu cầu thi hành án hoặc nhận bản án, quyết định; ra quyết định thi hành án; thông báo, xác minh điều kiện thi hành án; áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự; giao nhận quyền lợi, tài sản, thanh toán tiền thi hành án.v.v. đến kết thúc việc thi hành án. Cưỡng chế thi hành án dân sự nằm trong thủ tục thi hành án dân sự, do đó việc thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự phải tuân theo trình tự, thủ tục nhất định.
Trong hoạt động thi hành án dân sự, để bảo đảm hiệu lực thi hành của các bản án, quyết định, Nhà nước quy định các biện pháp cưỡng chế bảo đảm cho việc thi hành án. Khi Toà án ra bản án, quyết định thì bản thân sự phán quyết đó thể hiện quyền lực đặc biệt của Nhà nước bởi lẽ trong ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau về quyền tư pháp, tuy nhiên có thể thấy rằng quyền tư pháp có nghĩa rất rộng, bao gồm nhiều quyền liên quan trực tiếp đến hoạt động xét xử, như quyền điều tra, quyền truy tố và quyền thi hành án. “Quyền tư pháp không chỉ là quyền xét xử mà còn bao gồm các quyền năng khác được giao cho Tòa án thực hiện (như: quyền đánh giá, kết luận về tính hợp pháp và có căn cứ của các quyết định, hành vi tố tụng; xem xét, áp dụng hoặc thay đổi các biện pháp ngăn chặn hoặc cưỡng chế của Nhà nước; quyết định, giám sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án…)”[14]. Tòa án nhân danh Nhà nước đưa ra các phán quyết giải quyết tranh chấp, vi phạm, quyết định người nào có tội. Theo quyết định của Toà án, người bị kết án sẽ phải chịu một hình phạt nhất định hoặc một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào đó sẽ phải gánh chịu một nghĩa vụ tài sản hay thực hiện một công việc vì lợi ích của người khác. Như vậy, Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp thì Tòa án thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nhất định trong thi hành án, có chức danh tư pháp thuộc Tòa án để ra các quyết định làm khởi động, thay đổi hoặc hủy bỏ việc thi hành án và quyết định các vấn đề quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong thi hành án, như ra quyết định thi hành án, áp dụng một số biện pháp cưỡng chế thi hành án; cơ quan, tổ chức, cá nhân khác cũng được giao nhiệm vụ tổ chức việc thi hành án.
Phạm vi thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành “bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Toà án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại”[15] và quyết định, văn bản khác (sau đây gọi chung là bản án, quyết định dân sự). Phạm vi cưỡng chế thi hành án dân sự chính là cưỡng chế để đảm bảo thi hành bản án, quyết định đó theo quy định của pháp luật.
Là một loại cưỡng chế thi hành án, do đó cưỡng chế thi hành án dân sự có đặc trưng chung của cưỡng chế thi hành án nhưng cũng có đặc thù. Cưỡng chế thi hành án dân sự bao giờ cũng sử dụng quyền lực nhà nước để buộc cá nhân, tổ chức liên quan trực tiếp đến việc thực hiện bản án, quyết định, cho dù đó có thể là người được thi hành án, người phải thi hành án hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án dân sự hoặc cá nhân, tổ chức khác. Nói đến cưỡng chế thi hành án dân sự là nói đến việc dùng quyền lực nhà nước để thi hành án dân sự, tức là bắt buộc phải thi hành án, bởi lẽ bản án, quyết định đã được tuyên có hiệu lực pháp luật thì các đương sự phải tự nguyện thi hành, nếu không tự nguyện thì Nhà nước cưỡng chế bắt buộc phải thi hành. Việc dùng quyền lực nhà nước trong cưỡng chế thi hành án dân sự phải thông qua chủ thể nhất định tiến hành bằng những biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự cụ thể. Chủ thể tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự là chức danh cụ thể bởi vì tính chất đặc thù của thi hành án dân sự là do chức danh cụ thể tiến hành việc thi hành án dân sự, chủ thể đó có thể là công chức nhà nước thuộc Tòa án hoặc cơ quan nhà nước khác hoặc không phải là công chức nhà nước nhưng được Nhà nước trao quyền tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự, ở Việt Nam hiện nay đó là CHV và TPL. Chủ thể tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự tuân theo quy định cụ thể của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự mà không được tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự một cách tùy tiện theo ý muốn của mình, mọi hành vi vi phạm của chủ thể tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự đều bị xử lý.
Để bảo đảm thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự thì Nhà nước quy định bằng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, trong đó có quy định các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự và cách thức thực hiện. Trong thi hành án dân sự có nhiều bản án, quyết định được thi hành, với nhiều loại nghĩa vụ thi hành án, vì thế quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự phải có cách thức tiến hành cụ thể tương thích với loại nghĩa vụ đó, như: Cưỡng chế buộc thực hiện công việc nhất định, cưỡng chế buộc không được thực hiện công việc nhất định, cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền, cưỡng chế giao vật, chuyển QSDĐ, giao nhà, trả nhà, trừ vào thu nhập hoặc khai thác tài sản để thi hành án. Cưỡng chế thi hành án dân sự được đặt ra và tiến hành với mục đích cụ thể là thi hành việc thi hành án dân sự nhưng mục đích chung là thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự, bảo đảm hiệu lực thi hành của bản án, quyết định đó.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự như sau: Cưỡng chế thi hành án dân sự là việc chủ thể có thẩm quyền dùng quyền lực nhà nước thực hiện biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự đối với tổ chức, cá nhân nhằm bảo đảm thi hành trên thực tế quyền, nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Cưỡng chế thi hành án dân sự có thể được xem xét dưới góc độ là một quan hệ pháp luật, một chế định pháp luật hoặc một hoạt động áp dụng pháp luật trong thực tiễn.
2. Đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự
Theo cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành 2003 thì đặc điểm là “nét riêng biệt”[16]. Cưỡng chế thi hành án dân sự có những đặc điểm sau đây:
2.1. Cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện quyền lực nhà nước
Cũng như nhiều loại cưỡng chế khác (cưỡng chế hành chính, cưỡng chế thi hành án hình sự và cưỡng chế thi hành án hành chính v.v.), cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện quyền lực nhà nước, chỉ có cá nhân thuộc cơ quan chức năng của Nhà nước hoặc người thuộc tổ chức được Nhà nước trao quyền mới có thẩm quyền tiến hành cưỡng chế. Tùy loại hình cưỡng chế mà chủ thể khác nhau có thẩm quyền tiến hành nhưng đều thể hiện việc dùng quyền lực nhà nước đối với đối tượng bị cưỡng chế. Quyền lực nhà nước được thể hiện thông qua cưỡng chế thi hành án dân sự bằng việc chủ thể có thẩm quyền tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự ban hành quyết định cưỡng chế buộc cá nhân, tổ chức nhất định phải chấp hành để thi hành bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự, nếu không chấp hành thì sẽ bị xử lý nghiêm bằng các phương thức như xử phạt hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự và bồi thường thiệt hại nếu có. Cưỡng chế thi hành án dân sự bắt buộc các tổ chức, cá nhân tôn trọng và phối hợp thực hiện bản án, quyết định, kể cả sử dụng lực lượng chuyên chính là cảnh sát để bảo vệ cưỡng chế thi hành án dân sự, trấn áp những cá nhân có hành vi chống đối cưỡng chế thi hành án dân sự.
Theo Lthi hành án dân sự và Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 của Quốc hội về thực hiện chế định TPL thì điểm khác biệt quan trọng của cưỡng chế thi hành án dân sự so với các loại hình cưỡng chế khác là chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế hay còn gọi là tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự là CHV và TPL để thi hành bản án, quyết định Tòa án, ngoại trừ trường hợp đặc thù là thi hành quyết định của Trọng tài thương mại và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Mặt khác, xuất phát từ bản chất của thi hành án dân sự là thi hành các bản án, quyết định về “dân sự” chủ yếu của Tòa án - cơ quan tài phán nên đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự là dùng quyền lực nhà nước để bảo vệ và khôi phục các quyền về tài sản, các quyền về dân sự khác cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành chủ yếu của Tòa án. Nhà nước thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự thông qua chủ thể được Nhà nước trao quyền, được sử dụng quyền lực nhà nước khi cưỡng chế thi hành án dân sự.
2.2. Cưỡng chế thi hành án dân sự là một biện pháp thi hành án dân sự
Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể”[17]. Bản án, quyết định được thi hành có nhiều khoản, tùy từng trường hợp cụ thể có thể tổ chức thi hành một hoặc một số khoản trong bản án, quyết định theo yêu cầu của đương sự hoặc quy định của pháp luật. Khi tổ chức thi hành một hoặc một số khoản của bản án, quyết định thì phải thực hiện thông qua trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, với các bước thể hiện của quá trình khởi động, thực hiện và kết thúc việc thi hành án dân sự. Việc thi hành án dân sự được khởi động bằng quyết định thi hành án. Mỗi quyết định thi hành án là một việc thi hành án dân sự. Việc thi hành án dân sự được thực hiện trước hết bằng biện pháp tự nguyện thi hành án. Biện pháp tự nguyện thi hành án luôn luôn được khuyến khích, theo đó người phải thi hành án tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thi hành án trong thời hạn pháp luật quy định hoặc người phải thi hành án thỏa thuận được với người được thi hành án phương thức thực hiện việc thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, trong trường hợp biện pháp tự nguyện thi hành án không thực hiện được thì phải có sự can thiệp mạnh của Nhà nước để buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án bằng việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phù hợp. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong trường hợp nhất định, kể cả áp dụng đối với người thứ ba để thi hành án chính là một biện pháp thi hành án dân sự. Có thể nói, ngoại trừ trường hợp đặc biệt, cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự chỉ được thực hiện sau khi đã động viên, thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi hành án nhưng họ vẫn không tự nguyện thi hành án. Việc cưỡng chế thi hành án dân sự ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích vật chất, nhân thân của đương sự, nhất là người phải thi hành án nên thường gặp phải sự chống đối quyết liệt của đối tượng bị cưỡng chế, đồng thời các quyết định, hành vi của chủ thể tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự rất dễ bị khiếu nại, tố cáo từ cả hai phía người phải thi hành án và người được thi hành án, do đó phải hạn chế tối đa việc tổ chức thi hành án dân sự bằng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự; trong hợp phải cưỡng chế thi hành án dân sự thì phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật. Vì vậy, tự nguyện thi hành án dân sự và cưỡng chế thi hành án dân sự là hai biện pháp thi hành án dân sự được pháp luật quy định nhưng biện pháp thi hành án dân sự thực hiện thông qua cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án, trừ trường hợp đặc biệt do cần ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm trốn tránh việc thi hành án dân sự. Mặc dù đã ra quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự nhưng sự tự nguyện thi hành án dân sự vẫn được khuyến khích thực hiện để hạn chế, giảm thiểu tối đa việc phải cưỡng chế thi hành án dân sự đến cùng.
2.3. Cưỡng chế thi hành án dân sự áp dụng đối với nhiều đối tượng
Trong thi hành án hình sự, đối tượng cưỡng chế là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại bị kết án (người phải thi hành án) theo bản án, quyết định của Tòa án và nhằm mục đích trừng trị người phải thi hành án, đồng thời cải tạo, giáo dục họ trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Thế nhưng, trong thi hành án dân sự, đối tượng bị cưỡng chế không chỉ là người phải thi hành án (người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành)[18] mà còn được áp dụng đối với một số đối tượng khác. Trong nhiều trường hợp, sự chuyển hóa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vào quá trình tố tụng trước khi thi hành án dân sự thành người được thi hành án hoặc người phải thi hành án do họ được hưởng quyền hoặc phải thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, khi đó họ bị cưỡng chế thi hành án dân sự nếu họ thuộc đối tượng là người phải thi hành án hoặc người được thi hành án và tất nhiên họ phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật. Đối tượng bị cưỡng chế thi hành án dân sự có thể là cá nhân hoặc tổ chức, là người Việt Nam hoặc người nước ngoài, người đang quản lý tài sản hoặc không trực tiếp quản lý tài sản cưỡng chế thi hành án dân sự. Thông thường thì đối tượng bị cưỡng chế thi hành án dân sự là người phải thi hành án bởi họ phải thực hiện nghĩa vụ theo nội dung bản án, quyết định, vì vậy đối tượng bị cưỡng chế thi hành án dân sự không phải là người phải thi hành án dân sự không nhiều và chỉ bị cưỡng chế thi hành án dân sự trong những trường hợp cụ thể do pháp luật quy định, đó có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của đương sự hoặc là người thứ ba đang quản lý tài sản thi hành án dân sự mà không tự nguyện giao tài sản để xử lý bảo đảm thi hành án dân sự hoặc không tự nguyện giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án.
Việc thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự đối với đối tượng không phải là người phải thi hành án đòi hỏi phải thận trọng, tuân thủ đúng trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự, bởi họ không mong muốn bị cưỡng chế thi hành án dân sự nhưng không thể thực hiện được sự tự nguyện thi hành án do họ không có nghĩa vụ thi hành án và có trường hợp họ bị thiệt hại nhất định từ việc cưỡng chế thi hành án dân sự, như trường hợp cưỡng chế tài sản của người phải thi hành án có chung với người khác hoặc tài sản của người phải thi hành án đang cho người khác thuê, mượn, nhận cầm cố, thế chấp đang trong thời hạn hợp đồng thuê, mượn, cầm cố, thế chấp tài sản. Việc cưỡng chế thi hành án dân sự đối với đối tượng không phải là người phải thi hành án không giống như đối với người phải thi hành án, nhất là trong trường hợp quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự áp dụng trực tiếp đối với người phải thi hành án nhưng việc thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự lại được tiến hành đối với người không phải là người phải thi hành án, có trường hợp chỉ là yêu cầu họ chuyển đồ đạc, di dời tài sản ra khỏi tài sản bị cưỡng chế thi hành án dân sự của người phải thi hành án, tuy vậy họ vẫn là đối tượng bị cưỡng chế thi hành án dân sự mặc dù họ không phải là người phải thi hành án.
2.4. Cưỡng chế thi hành án dân sự được áp dụng thông qua thực hiện quyết định có hiệu lực bắt buộc thi hành
Cưỡng chế thi hành án dân sự được thể hiện cụ thể bằng việc ban hành quyết định của người có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế. Tùy từng trường hợp cụ thể, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế ra quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự. Với tính chất là một văn bản áp dụng pháp luật, quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự có giá trị bắt buộc thi hành đối với người bị cưỡng chế. Quyết định cưỡng chế được ban hành trên cơ sở bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự và nhằm thi hành bản án, quyết định đó, vì vậy nếu quyết định cưỡng chế được ban hành mà không tổ chức thực hiện thì quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự đó chưa được thực thi trên thực tế, chưa ban hành quyết định cưỡng chế thì cưỡng chế thi hành án dân sự chưa được áp dụng. Tuy nhiên, xuất phát từ bản chất của cưỡng chế thi hành án dân sự là dùng quyền lực nhà nước thì thông qua thực hiện quyết định có hiệu lực thi hành, cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp hạn chế quyền tự chủ, định đoạt của chủ sở hữu, sử dụng tài sản nhằm đảm bảo khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành. Chính vì vậy, cưỡng chế thi hành án dân sự không chỉ có ý nghĩa bảo đảm thi hành án mà còn là bảo vệ sự bình đẳng trước pháp luật giữa các đương sự, cá nhân, tổ chức có liên quan, là căn cứ quan trọng trong việc xử lý hành vi vi phạm của người phải thi hành án, đặc biệt là trong việc xử lý bằng trách nhiệm hình sự. Theo quy định của pháp luật hình sự thì người nào có điều kiện mà không chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án. Như vậy, bị áp dụng biện pháp cưỡng chế là yếu tố bắt buộc về mặt khách quan trong cấu thành tội không chấp hành án.
Quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự không chỉ có giá trị bắt buộc thi hành đối với người phải thi hành án, mà tất cả những tổ chức, cá nhân có liên quan phải tôn trọng và thực hiện. Chủ thể có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự phải thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, nội dung và phù hợp với thực tế; hành vi ra quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự không đúng pháp luật cũng bị xử lý nghiêm khắc, trong đó có hình thức xử lý bằng trách nhiệm hình sự với tội danh không thi hành án hoặc ra quyết định trái pháp luật.
TS. Lê Anh Tuấn
 

[1]. Nguyễn Công Long (2000), Luận án Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.76.
[2]. Đặng Đình Quyền (2012), “Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ luật học, Hà Nội, tr.17.
[3]. Viện ngôn ngữ học (2001), Từ điển tiếng Việt, NXB Thanh niên, Hà Nội, tr.126.
[4]. Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXB Văn hóa thông tin, tr.499.
[5]. Viện ngôn ngữ học (2001), Từ điển tiếng Việt, NXB Thanh niên, Hà Nội, tr.196.
[6].  Viện ngôn ngữ học (1996), Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, Hà Nội, tr.123
[7]. NXB Từ điển Bách khoa (1999), Từ điển Luật học, Hà Nội, tr.323.
[8] NXB Từ điển Bách khoa và NXB Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Hà Nội, tr. 204-205.
[9] Nguyễn Duy Lãm (chủ biên, 1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, NXB Giáo dục , tr.204-205.
[10] . Nguyễn Duy Lãm (chủ biên, 1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, NXB Giáo dục , tr.295.
[11]. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, NXB Tư pháp, Hà Nội. tr.12.
[12]. NXB Từ điển Bách Khoa (2005), Từ điển tiếng Việt, Hà Nội,, tr.960
[13]. Viện ngôn ngữ học (1996), Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, Hà Nội. tr.1037.
[14]. Tòa án nhân dân tối cao (2014) “Tập hợp các báo cáo, chuyên đề về hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân; về quyền tư pháp và chế định Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân”, Tài liệu tham khảo phục vụ cho việc chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật Tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi), tr.98.
[15]. Quốc hội (2014), Luật thi hành án dân sự, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.3.
[16]. Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr.292.
[17]. NXB Từ điển Bách Khoa (2005), Từ điển tiếng Việt, Hà Nội, tr.161.
 
[18]. Quốc hội (2014), Luật Thi hành án dân sự, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.3.