Về kê biên, xử lý phần vốn góp để thi hành án

15/12/2017
Trong công tác thi hành án dân sự thì biện pháp cưỡng chế thi hành án được Chấp hành viên áp dụng nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án khi họ có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản. Cưỡng chế thi hành án là biện pháp nghiêm khắc nhất và cũng là biện pháp thể hiện đầy đủ nhất việc sử dụng quyền lực nhà nước trong công tác thi hành án dân sự để bảo đảm bản án, quyết định của Tòa án được thi hành trên thực tế, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.


Các biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định là cơ sở pháp lý để Chấp hành viên căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; quyết định thi hành án; tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án và tình hình thực tế của địa phương để lựa chọn việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án thích hợp. Trong các biện pháp cưỡng chế đối với tài sản thì biện pháp kê biên phần vốn góp của người phải thi hành án là một biện pháp hoàn toàn mới và được quy định từ khi Luật thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực. Đây là một quy định phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ hiện nay, cũng như xu thế phát triển trong tương lai. Đất nước chúng ta đang trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, cùng với xu thế hội nhập, toàn cầu hóa nền kinh tế. Do vậy, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế nói chung đang trên đà phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Ngày nay, việc tham gia thành lập, góp vốn vào các công ty là hoạt động khá phổ biến. Nên việc pháp luật quy định cho phép Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự có quyền kê biên, xử lý phần vốn góp của người phải thi hành án trong các công ty/doanh nghiệp để thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và cơ quan có thẩm quyền cũng là một trong những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, đồng thời cũng hạn chế được việc người phải thi hành án lợi dụng kẽ hở của pháp luật để tẩu tán tài sản bằng hình thức góp vốn vào các đơn vị kinh tế, cụ thể Điều 92 Luật thi hành án dân sự quy định:
“1. Chấp hành viên yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức nơi người phải thi hành án có vốn góp cung cấp thông tin về phần vốn góp của người phải thi hành án để kê biên phần vốn góp đó. Trong trường hợp cần thiết, Chấp hành viên yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xác định phần vốn góp của người phải thi hành án; trưng cầu tổ chức, cá nhân có chuyên môn xác định phần giá trị vốn góp của người phải thi hành án để cưỡng chế thi hành án.
2. Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần vốn góp của người phải thi hành án.”
Tại khoản 1 Điều luật nêu trên đã quy định rõ, Chấp hành viên có quyền kê biên phần vốn góp của người phải thi hành án, đồng thời cũng quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin nơi nhận góp vốn của người phải thi hành án. Tuy nhiên, khi áp dụng những quy định trên vào thực tiễn công tác thi hành án dân sự, đã gặp phải rất nhiều khó khăn về việc xác định giá trị phần vốn góp và cách kê biên xử lý phần vốn góp đó như thế nào.
1. Một số khái niệm cơ bản:
Trước hết, để thực hiện việc kê biên phần vốn góp theo quy định trên, chúng tôi cho rằng cần phải hiểu rõ và phân biệt được một số khái niệm như góp vốn, phần vốn góp và tỉ lệ góp vốn theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014. Đồng thời, cũng cần nghiên cứu kỹ các quy định về chuyển nhượng vốn góp, tìm hiểu xem khi tiến hành kê biên xử lý phần vốn góp của người phải thi hành án thì có ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp hay không.
Một là, khái niệm góp vốn:
Theo giải thích tại khoản 13 Điều 2 Luật doanh nghiệp năm 2014 (gọi tắt là LDN 2014) thì “Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập công ty hoặc góp thêm vốn điều lệ của công ty đã được thành lập”
Như vậy, góp vốn là việc các thành viên/cổ đông chuyển tài sản của mình vào công ty, để trở thành chủ sở hữu hoặc các đồng sở hữu công ty. Dựa theo khái niệm về tài sản của Bộ luật dân sự thì có thể thấy tài sản mang vào góp vốn rất đa dạng bao gồm rất nhiều loại tài sản khác nhau như đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam. Trong trường hợp tài sản góp vốn không phải là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng phải được các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá và được thể hiện thành Đồng Việt Nam. Đồng thời, theo quy định thì đối với thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh hoặc cổ đông công ty cổ phần khi thực hiện hoạt động góp vốn thì phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn theo quy định của pháp luật.
Hai là, khái niệm phần vốn góp:
Tại khoản 21 Điều 2 LDN 2014 giải thích về phần vốn góp như sau: Phần vốn góp là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam kết góp vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh. Tỷ lệ phần vốn góp là tỷ lệ giữa phần vốn góp của một thành viên và vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh.
Ba là, tỷ lệ góp vốn: là phần góp vốn của một thành viên khi sáng lập công ty so với tổng vốn điều lệ.
Như vậy, từ những quy định trên cho thấy có sự phân biệt rõ ràng giữa tài sản góp vốn và phần vốn góp. Tài sản góp vốn rất đa dạng, có thể là tài sản hữu hình hoặc tài sản vô hình. Còn phần vốn góp là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam kết góp vào công ty. Phần vốn góp của mỗi thành viên thường được tính theo tỷ lệ phần trăm trên tổng số vốn điều lệ của công ty. Khi tài sản của thành viên công ty đã được góp vào công ty theo đúng trình tự thủ tục quy định, thì những tài sản này sẽ được chuyển quyền sở hữu, sử dụng cho công ty. Công ty chính là chủ sở hữu, sử dụng đối với tài sản mà thành viên đã góp vốn, còn thành viên góp vốn chỉ là chủ sở hữu của phần giá trị đã góp vào công ty.
2. Thực hiện việc kê biên xử lý phần vốn góp:
Một trong hợp sau đây nêu ra làm ví dụ:
Công ty TNHH XYZ có vốn điều lệ là 100 tỷ đồng do ông Ngô Văn Hải làm Giám đốc và có khoản 300 công nhân. Công ty có các thành viên là: ông Ngô Văn Hải, bà Lê Thị Mai và ông Nguyễn Văn Đức. Trong đó phần góp vốn của các thành viên như sau: ông Hải 60 tỷ đồng, bà Mai 30 tỷ đồng, ông Đức 10 tỷ đồng. Các thành viên đã góp đủ vốn vào Công ty theo đúng quy định của pháp luật, cụ thể:
- Ông Hải góp một Quyền sử dụng đất làm nhà xưởng và 01 xe ô tô;
- Bà Mai góp một dây chuyền sản xuất và 5 tỷ đồng tiền mặt;
- Ông Đức góp 10 tỷ đồng tiền mặt.
Như vậy, trong trường hợp này xem xét phần vốn góp và tài sản góp vốn của các thành viên chúng ta sẽ thấy, ví dụ:
Đối với bà Mai:
- Tài sản góp vốn là một dây chuyền sản xuất và 5 tỷ đồng.
- Phần vốn góp là 30 tỷ đồng tương đương với 30% vốn điều lệ.
Do đó, giả sử bà Mai là người phải thi hành án một khoản tiền là 50 tỷ đồng và Chấp hành viên dự định sẽ kê biên phần vốn góp của bà trong Công ty TNHH XYZ. Trong trường hợp này một số người nhầm lẫn và đã tiến hành kê biên dây chuyền sản xuất của Công ty. Đây là sự nhầm lẫn khá phổ biến nhưng có thể gây ra hậu quả rất lớn và có thể dẫn đến việc Chấp hành viên phải bồi thường. Ví dụ như khi kê biên xử lý dây chuyền sản xuất sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, các đơn hàng của Công ty, ảnh hưởng đến việc làm của công nhân.
Vậy thì Chấp hành viên phải kê biên cái gì? Câu trả lời có vẽ như rất dễ dàng đó là kê biên “Phần vốn góp” theo quy định tại Điều 92. Vậy theo ví dụ trên có phải Chấp hành viên sẽ ra quyết định kê biên phần vốn góp là 30 tỷ đồng tương đương với 30% vốn điều lệ của bà Mai trong Công ty không? Câu trả lời trên vẫn chưa được chắc chắn, bởi vì 30 tỷ đồng ở đây là tổng giá trị tài sản được xác định, định giá tại thời điểm bà Mai góp vốn còn tại thời điểm thi hành án thì giá trị tài sản cũng như trị giá của Công ty đã có sự thay đổi.
Mối liên hệ giữa tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ với tỷ lệ sở hữu giá trị công ty:
Theo chúng tôi vấn đề mấu chốt để trả lời cho câu hỏi kê biên cái gì đã nêu ở trên chính là phải làm sáng tỏ mối quan hệ giữa tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ với tỷ lệ sở hữu giá trị công ty của các thành viên công ty.
Theo quy định thì, vốn điều lệ của công ty là tổng giá trị tài sản do các thành viên đã góp hoặc cam kết góp khi thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; là tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã bán hoặc đã được đăng ký mua khi thành lập công ty đối với công ty cổ phần.
Thực tiễn cho thấy, vốn điều lệ của một công ty là một trong những cơ sở chứng minh tiềm lực kinh tế và khả năng chịu trách nhiệm của công ty trước các đối tác làm ăn. Nhưng hiện nay, pháp luật không quy định mức vốn điều lệ tối thiểu khi thành lập doanh nghiệp, cũng không bắt buộc các doanh nghiệp phải chứng minh “sự tồn tại” của vốn điều lệ, vì thế vốn điều lệ hoàn toàn phụ thuộc vào sự tính toán của các thành viên sáng lập. Cũng chính vì thế mà có nhiều công ty có số vốn điều lệ rất cao nhưng thực tế thì các thành viên không thực sự góp đầy đủ số vốn này. Tuy nhiên, về mặt pháp lý thì vốn điều lệ của công ty sẽ là căn cứ để chịu trách nhiệm về tài sản khi phát sinh. Từ đó sẽ xác định trách nhiệm của các thành viên công ty tương ứng với số vốn góp của họ đã cam kết góp vào công ty. Nghĩa là trên giấy tờ công ty ghi bao nhiêu thì các thành viên đó phải chịu trách nhiệm tương ứng với số vốn góp đó. Do vậy, có thể nói tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ trong công ty của các thành viên góp vốn cũng chính là tỷ lệ sở hữu giá trị công ty.
Như vậy, khi kê biên phần vốn góp cũng chính là kê biên một phần giá trị của công ty mà người phải thi hành án đang sở hữu tương ứng với tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ của họ. Để dễ hiểu hơn chúng ta quay lại ví dụ trên thì Chấp hành viên sẽ kê biên phần vốn góp của bà Mai tương đương với 30% vốn điều lệ (cũng tương đương với 30% giá trị Công ty).
Đến đây chúng ta thấy, để tiến hành kê biên phần vốn góp của người phải thi hành án trong công ty một cách chính xác thì pháp luật cần phải có thêm các quy định đóng vai trò là “gạch nối” giữa tỉ lệ sở hữu vốn điều lệ với tỉ lệ sở hữu giá trị công ty của các thành viên. Đồng thời để tiến hành kê biên được thì Chấp hành viên phải xác định được giá trị của công ty nơi đang có phần vốn góp của người phải thi hành án. Giá trị công ty là giá trị toàn bộ tài sản của một công ty bao gồm các tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Trong đó giá trị của mỗi tài sản cấu thành tổng tài sản của công ty không thể tách rời nhau và cũng không thể thẩm định trên cơ sở giá trị thị trường của mỗi loại tài sản đó, mà nó phải được xem xét trên tổng thể các yếu tố cấu thành giá trị của công ty. Vì vậy, việc thẩm định giá trị của công ty hiện nay là vấn đề hết sức phức tạp, cho nên Chấp hành viên cần ký hợp đồng với các công ty thẩm định giá có năng lực và có uy tín.
Tóm lại, để kê biên xử lý phần vốn góp thì Chấp hành viên cần nắm rõ một số vấn đề đã nêu trên để tránh trường hợp kê biên các tài sản người phải thi hành án đã góp vào công ty khi không có sự đồng ý của công ty hoặc hiểu sai các khái niệm dẫn đến việc kê biên, xử lý phần vốn góp không đúng quy định. Đồng thời, trước khi tiến hành kê biên phần vốn góp mà người phải thi hành án đã góp vào công ty, Chấp hành viên cần xác minh xem tài sản mà người phải thi hành án góp vào công ty là loại tài sản gì, giá trị tại thời điểm góp vốn là bao nhiêu và đã được chuyển quyền sở hữu, sử dụng sang cho công ty chưa để có cơ sở giải quyết. Trong trường hợp cần thiết thì Chấp hành viên có thể hướng dẫn cho đương sự quyền yêu cầu Tòa án xác định phần vốn góp của người phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Luật THADS.
3. Một số lưu ý và các vấn đề khó khăn trong việc kê biên xử lý phần vốn góp của người phải thi hành án
Một là, nếu là tài sản góp vốn vào công ty nhưng chưa thực hiện việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng cho công ty hoặc việc góp vốn được thực hiện sau khi có quyết định, bản án của Tòa có hiệu lực pháp luật thì Chấp hành viên vẫn có quyền kê biên xử lý những tài sản này theo thủ tục thông thường. Trường hợp, tài sản góp vốn đã được chuyển quyền sở hữu, sử dụng cho công ty thì Chấp hành viên chỉ được kê biên phần vốn góp (phần giá trị góp vốn) mà  không được kê biên những tài sản cụ thể đã góp vốn vào công ty, trừ khi được công ty đồng ý.
Hai là, về lý thuyết, để xác định giá trị phần vốn góp của người phải thi hành án không phải là việc phức tạp, vì được tính trên tỷ lệ vốn mà người đó đã góp vào vốn điều lệ của công ty. Thông thường có thể căn cứ vào các tài liệu như Giấy phép đăng ký kinh doanh, biên bản góp vốn và sổ sách kế toán của công ty. Tuy nhiên, thực tế thì lại rất phức tạp vì khi công ty đã đi vào hoạt động thì giá trị của công ty có thể thay đổi tăng hoặc giảm đi rất nhiều so với vốn điều lệ. Do vậy, lúc này cần phải tiến hành việc định giá công ty và như đã trình bày thì đây là việc khó khăn và phức tạp Chấp hành viên không thể làm được mà cần có sự trợ giúp của tổ chức chuyên môn.
Ba là, sau khi đã xác định được phần vốn góp của người phải thi hành án trong công ty thì vấn đề khó khăn tiếp theo là việc kê biên xử lý phần vốn góp đó như thế nào, vì đây là một loại tài sản đặc biệt, có tính chất pháp lý đặc biệt. Liên quan đến việc xử lý, bán đấu giá phần vốn góp hiện nay pháp luật về thi hành án dân sự vẫn chưa có quy định và hướng dẫn cụ thể. Do vậy, Chấp hành viên phải đặc biệt chú ý đế các quy định của Luật doanh nghiệp 2014 (LDN) liên quan đến việc chuyển nhượng vốn góp.
Chuyển nhượng vốn góp trong công ty TNHH là hành vi của thành viên công ty tiến hành chuyển giao một phần hoặc toàn bộ quyền và nghĩa vụ tương ứng với phần góp vốn của mình trong công ty cho thành viên khác hoặc cá nhân, tổ chức khác không phải thành viên. Theo đó, các quyền và nghĩa vụ này sẽ được trị giá bằng tiền hoặc các giá trị vật chất khác theo thỏa thuận của bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng. Nếu thành viên có yêu cầu chuyển nhượng vốn cho người khác thì phải tuân theo các quy định về trình tự tại Điều 53 LDN.
“1. Thành viên có quyền yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp của mình, nếu thành viên đó đã bỏ phiếu không tán thành đối với nghị quyết của Hội đồng thành viên về vấn đề sau đây:
a) Sửa đổi, bổ sung các nội dung trong Điều lệ công ty liên quan đến quyền và nghĩa vụ của thành viên, Hội đồng thành viên;
b) Tổ chức lại công ty;
c) Các trường hợp khác theo quy định tại Điều lệ công ty.
Yêu cầu mua lại phần vốn góp phải bằng văn bản và được gửi đến công ty trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thông qua nghị quyết quy định tại khoản này.
2. Khi có yêu cầu của thành viên quy định tại khoản 1 Điều này, nếu không thỏa thuận được về giá thì công ty phải mua lại phần vốn góp của thành viên đó theo giá thị trường hoặc giá được định theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Việc thanh toán chỉ được thực hiện nếu sau khi thanh toán đủ phần vốn góp được mua lại, công ty vẫn thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác.
3. Trường hợp công ty không mua lại phần vốn góp theo quy định tại khoản 2 Điều này thì thành viên đó có quyền tự do chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho thành viên khác hoặc người khác không phải là thành viên”
Theo đó, thành viên phải chào bán cho thành viên trong công ty trước với cùng một điều kiện và với tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ. Nếu các thành viên này không mua hoặc không mua hết trong vòng 30 ngày kể từ ngày chào bán thì mới được chuyển nhượng cho người không phải thành viên công ty. Tuy nhiên có hai trường hợp mà không bắt buộc phải áp dụng nguyên tắc khi chuyển nhượng là:
Thứ nhất, trường hợp thành viên muốn sử dụng phần vốn góp để trả nợ, thành viên có thể sử dụng phần vốn góp của mình để trả trực tiếp một nghĩa vụ nợ nào đó, hoặc sử dụng như một loại tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ nợ khi đến hạn. Như vậy về mặt bản chất đây cũng là một hành vi chuyển nhượng vốn. Trong trường hợp chuyển nhượng đặc biệt này, người nhận thanh toán có thể trở thành thành viên nếu được Hội đồng thành viên chấp thuận. Nếu người nhận thanh toán không muốn trở thành thành viên nữa hoặc không được Hội đồng thành viên chấp thuận thì người này mới phải chào bán phần vốn góp theo quy định của Điều 52 LDN.
Thứ hai, Trường hợp công ty không mua lại phần vốn góp, không thanh toán được phần vốn góp mua lại hoặc không thỏa thuận được về giá mua lại phần vốn góp như quy định tại khoản 2 Điều 52 thì thành viên đó có quyền tự do chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho thành viên khác hoặc người khác không phải là thành viên.
- Đối với chuyển nhượng vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì đơn giản hơn so với công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên do công ty chỉ có một chủ sở hữu nhất định. Tuy nhiên, thành viên của công ty TNHH một thành viên có nhu cầu chuyển nhượng vốn thì có thể xảy ra hai trương hợp:
+ Nếu thành viên công ty TNHH một thành viên chuyển nhượng một phần vốn góp cho cá nhân, tổ chức khác thì công ty phải tiến hành chuyển đổi loại hình công ty sang mô hình nhiều chủ sở hữu.
+ Nếu thành viên công ty TNHH một thành viên chuyển nhượng toàn bộ vốn góp cho cá nhân hoặc tổ chức khác thì công ty phải tiến hành thay đổi chủ sở hữu.
- Đối với Công ty cổ phần, Điều 126 LDN quy định:
1. Cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 của Luật này và Điều lệ công ty có quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần. Trường hợp Điều lệ công ty có quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần thì các quy định này chỉ có hiệu lực khi được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng.
2. Việc chuyển nhượng được thực hiện bằng hợp đồng theo cách thông thường hoặc thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán. Trường hợp chuyển nhượng bằng hợp đồng thì giấy tờ chuyển nhượng phải được bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại diện ủy quyền của họ ký. Trường hợp chuyển nhượng thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán, trình tự, thủ tục và việc ghi nhận sở hữu thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
3. Trường hợp cổ đông là cá nhân chết thì người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của cổ đông đó là cổ đông của công ty.
4. Trường hợp cổ phần của cổ đông là cá nhân chết mà không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận thừa kế hoặc bị truất quyền thừa kế thì số cổ phần đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự.
5. Cổ đông có quyền tặng cho một phần hoặc toàn bộ cổ phần của mình tại công ty cho người khác; sử dụng cổ phần để trả nợ. Trường hợp này, người được tặng cho hoặc nhận trả nợ bằng cổ phần sẽ là cổ đông của công ty.
6. Trường hợp cổ đông chuyển nhượng một số cổ phần thì cổ phiếu cũ bị hủy bỏ và công ty phát hành cổ phiếu mới ghi nhận số cổ phần đã chuyển nhượng và số cổ phần còn lại.
7. Người nhận cổ phần trong các trường hợp quy định tại Điều này chỉ trở thành cổ đông công ty từ thời điểm các thông tin của họ quy định tại khoản 2 Điều 121 của Luật này được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông
- Đối với công ty hợp danh: Thành viên hợp danh có thể tự do chuyển nhượng phần vốn góp cho các thành viên hợp danh khác, nhưng khi thành viên hợp danh muốn chuyển nhượng vốn góp cho người không phải là thành viên hợp danh của công ty thì cần phải có sự đồng ý của các thành viên hợp danh còn lại (khoản 3 điều 175 LDN 2014). Đối với thành viên hợp vốn: Các thành viên hợp vốn hoạt động hoàn toàn dựa trên nguyên tắc đối vốn, không gây ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức, hoạt động quản lý, kinh doanh của công ty nên việc chuyển nhượng vốn đơn giản và không hạn chế. Thành viên hợp vốn được tự do chuyển nhượng phần vốn góp cho người khác, không nhất thiết phải là thành viên của công ty (điểm d khoản 1 điều 182 LDN 2014).
Từ trước đến nay vẫn có một số quan điểm cho rằng việc kê biên, xử lý phần vốn góp của người phải thi hành án là việc bán tài sản của công ty và làm giảm giá trị của công ty. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên và qua các quy định về chuyển nhượng vốn góp của các loại hình công ty theo LDN chúng ta có thể thấy về mặt lý thuyết thì việc kê biên, xử lý phần vốn góp của người phải thi hành án không làm hoặc ít làm ảnh hưởng đến giá trị của công ty, nó chỉ làm mất hoặc giảm tỷ lệ sở hữu đối với phần vốn góp trong công ty của người phải thi hành án và có thể dẫn đến sự thay đổi thành viên trong doanh nghiệp mà thôi. Đây cũng chính là một trong những vấn đề quan trọng mà Chấp hành viên cần nắm vững để làm cơ sở vận động, thuyết phục các công ty hợp tác khi họ có thành viên góp vốn là người phải thi hành án.
Từ những nhận thức như trên, chúng tôi cho rằng việc kê biên, xử lý phần vốn góp của người phải thi hành án hiện nay còn gặp rất nhiều khó khăn và gây lúng túng cho Chấp hành viên khi tổ chức thi hành án. Để khắc phục được những vấn đề này, thiết nghĩ cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn về trình tự thủ tục kê biên, xử lý phần vốn góp. Trong đó cần đặc biết chú ý các vấn đề như cách xác định giá trị doanh nghiệp tại thời điểm thi hành án, trình tự thủ tục bán đấu giá và chuyển nhượng phần vốn góp. Có như vậy thì biện pháp cưỡng chế kê biên vốn góp mới phát huy được ý nghĩa của nó trên thực tế, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.
Hồ Quân Chính – Cục THADS Tp.HCM