Một số vấn đề về bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành và bồi thường nhà nước trong thi hành án dân sự

07/02/2018


1. Những vấn đề chung về bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án
a) Khái niệm bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành
Theo Điều 65 Luật THADS, bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án là việc sử dụng ngân sách nhà nước để thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự trong trường hợp cơ quan, tổ chức hoạt động hoàn toàn bằng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp phải thi hành án đã áp dụng mọi biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn không có khả năng thi hành án theo quy định của pháp luật.
Cơ chế bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án xuất phát từ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước và các tổ chức hoạt động hoàn toàn bằng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp. Các cơ quan, tổ chức này được ngân sách nhà nước cấp kinh phí để hoạt động, thực hiện các nhiệm vụ được giao. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ mà phát sinh nghĩa vụ phải thi hành án, bản thân các cơ quan đã dùng mọi biện pháp theo quy định pháp luật để thi hành án mà không đủ thì được sử dụng ngân sách nhà nước để thi hành án. Điều này nhằm đảm bảo cho các cơ quan, tổ chức tiếp tục được duy trì hoạt động, đồng thời thực hiện nguyên tắc hiến định mọi Bản án, quyết định của Tòa án phải được tôn trọng và nghiêm chỉnh thi hành theo đúng tinh thần nguyên tắc hiến định mà nhiều bản Hiến pháp ở nước ta đã quy định (hiện nay là Điều 106 Hiếp pháp năm 2013); góp phần bảo vệ kỷ cương pháp luật, bảo vệ pháp chế XHCN; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.
b) Cơ sở pháp lý
Hiện nay, nội dung bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án được quy định tại Điều 65 Luật THADS, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (Điều 41, Điều 42) và Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC ngày 10/6/2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án.
Ngoài ra, vấn đề này còn được điều chỉnh bởi một số các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan như: Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009; Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BTP-BQP ngày 07/12/2015 của Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động THADS; Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước; Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ngày 07/10/2013 của Chính phủ quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP; Nghị định số 84/2014/NĐ-CP ngày 08/09/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
c) Đối tượng, điều kiện, phạm vi, các nghĩa vụ được bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án
- Đối tượng được bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án để thi hành án: Cơ quan, tổ chức hoạt động hoàn toàn bằng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp phải thi hành án đã áp dụng mọi biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn không có khả năng thi hành án thì ngân sách nhà nước bảo đảm nghĩa vụ thi hành án (Điều 65 Luật THADS). Theo quy định trên thì chủ thể phải thi hành quyết định về phần tài sản trong các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính cũng thuộc đối tượng được bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án.
- Điều kiện bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án để thi hành án: Theo quy định tại Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ và Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC, cơ quan, tổ chức phải thi hành án thuộc diện được bảo đảm tài chính để thi hành án được ngân sách nhà nước bảo đảm tài chính để thi hành án sau khi:
+ Đã yêu cầu người có lỗi thực hiện nghĩa vụ nhưng người đó chưa có khả năng thực hiện nghĩa vụ hoặc có nhưng số tiền đã nộp chỉ đáp ứng một phần nghĩa vụ thi hành án.
+ Cơ quan, tổ chức đã sử dụng khoản kinh phí tiết kiệm được từ nguồn kinh phí tự chủ theo quy định của pháp luật.
- Phạm vi bảo đảm tài chính để thi hành án: Ngân sách nhà nước bảo đảm tài chính để thi hành án trong các trường hợp sau:
+ Đối với nghĩa vụ thanh toán bằng tiền được xác định trong bản án, quyết định, bao gồm nghĩa vụ bằng tiền mặt, nghĩa vụ bằng tài sản nếu bản án, quyết định đã quy ra thành tiền.
+ Đối với nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định là nghĩa vụ giao tài sản nhưng tài sản phải giao bị giảm giá trị hoặc tài sản phải giao không còn sau khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
- Các nghĩa vụ phải thi hành án được xem xét bảo đảm tài chính: Nghĩa vụ phải thi hành án là căn cứ tính mức bảo đảm tài chính để thi hành án và được xác định như sau:
+ Nghĩa vụ thanh toán bằng tiền được xác định trong bản án, quyết định, bao gồm nghĩa vụ bằng tiền mặt, nghĩa vụ bằng tài sản nếu bản án, quyếtđịnh đã quy ra thành tiền.
+ Nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định là nghĩa vụ giao tài sản nhưng tài sản phải giao bị giảm giá trị hoặc tài sản phải giao không còn sau khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp cơ quan, tổ chức phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án với nhiều người được thi hành án trong một bản án, quyết định hoặc phải thực hiện nhiều nghĩa vụ thi hành án trong nhiều bản án, quyết định khác nhau, thì nghĩa vụ phải thi hành án là tổng các nghĩa vụ thi hành án mà cơ quan, tổ chức phải thi hành án phải thực hiện.
2. Tiêu chí phân biệt giữa bồi thường nhà nước và bảo đảm tài chính trong thi hành án dân sự
Bồi thường nhà nước là việc Nhà nước chịu trách nhiệm bồi thường cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần do lỗi của người thi hành công vụ gây ra trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Nhà nước giao. Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là một trách nhiệm pháp lý thay thế, theo đó Nhà nước với tư cách là chủ sử dụng lao động, phải có trách nhiệm bồi thường khi cán bộ, công chức của mình có hành vi vi phạm pháp luật khi thi hành công vụ, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Về bản chất, cơ chế bồi thường của Nhà nước được quy định trên nguyên tắc và bản chất bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự (người bị thiệt hại có thể yêu cầu bồi thường hoặc không yêu cầu bồi thường, việc yêu cầu bồi thường về nguyên tắc không được cao hơn thiệt hại thực tế xảy ra).
Như vậy, cơ sở của chế định bồi thường nhà nước chính là dựa trên các quyền của công dân, các quyền này được pháp luật ghi nhận, bảo hộ và được bảo đảm thực hiện bởi Nhà nước; chế định pháp lý về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước chỉ có thể xuất hiện ở một xã hội hiện đại, đề cao tính dân chủ và tôn trọng các quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội.
Vấn đề phân biệt giữa bồi thường nhà nước và bảo đảm tài chính trong THADS đã được quy định tại Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC ngày 10/6/2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án, cụ thể, tại khoản 2 Điều 4 quy định: “Trường hợp nghĩa vụ thi hành án của cơ quan, tổ chức phát sinh do người thi hành công vụ gây ra và đã được giải quyết theo trình tự, thủ tục bồi thường nhà nước thì việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thực hiện theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước”.
Như vậy, theo quy định trên, pháp luật hiện nay đang phân biệt bồi thường nhà nước và bảo đảm tài chính trong THADS dựa trên tiêu chí về trình tự, thủ tục thực hiện. Có thể cùng một dạng nghĩa vụ thi hành án, nhưng trước đó đã được giải quyết theo trình tự, thủ tục bồi thường nhà nước thì việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước, cụ thể những trường hợp, cơ quan có trách nhiệm bồi thường tiến hành thụ lý, xác minh thiệt hại, thương lượng… và ban hành quyết định giải quyết bồi thường. Khi quyết định giải quyết bồi thường được ban hành, nếu không đồng ý thì người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết vụ việc theo thủ tục tố tụng án (khoản 1 Điều 22 Luật TNBTCNN năm 2009). Sau khi Tòa án xét xử, trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên buộc cơ quan THADS phải bồi thường cho người yêu cầu bồi thường, lúc này, việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nêu trên được áp dụng trình tự, thủ tục bồi thường nhà nước để thực hiện (cơ quan THADS có trách nhiệm bồi thường sẽ lập hồ sơ đề nghị cấp kinh phí bồi thường gửi Tổng cục THADS để thẩm định, đề nghị Bộ Tài chính cấp kinh phí - Điều 54 Luật TNBTCNN năm 2009); nhưng cùng dạng nghĩa vụ thi hành án đó, trước đó chưa từng được giải quyết theo trình tự, thủ tục bồi thường nhà nước thì việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án được áp dụng trình tự, thủ tục bảo đảm tài chính để thực hiện (trước hết, cơ quan THADS đó phải yêu cầu người có lỗi thực hiện nghĩa vụ. Trường hợp người đó chưa có khả năng thực hiện nghĩa vụ hoặc có nhưng số tiền đã nộp chỉ đáp ứng một phần nghĩa vụ thi hành án, cơ quan THADS tiếp tục sử dụng khoản kinh phí tiết kiệm được từ nguồn kinh phí tự chủ theo quy định. Trong trường hợp vẫn chưa thi hành toàn bộ nghĩa vụ, cơ quan THADS lập hồ sơ bảo đảm tài chính gửi đến cơ quan cấp trên trực tiếp để xem xét, tổng hợp, gửi cơ quan có thẩm quyền thẩm định, cấp kinh phí bảo đảm thi hành án - Điều 2, điểm b khoản 1 Điều 8 Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC ngày 10/6/2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng hướng dẫn bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án).
 3. Một số lưu ý trong công tác bảo đảm tài chính để thi hành án khi Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 có hiệu lực
3.1 Một số lưu ý về tiêu chí phân biệt giữa bồi thường nhà nước và bảo đảm tài chính trong thi hành án dân sự khi Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 có hiệu lực
Một trong những nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật TNBTCNN năm 2017 mà các cơ quan THADS cần lưu ý đó là vấn đề liên quan đến các quy định về quyền khởi kiện và cơ quan giải quyết bồi thường. So với Luật năm 2010, Luật TNBTCNN năm 2017 đã quy định “sớm hơn” thời điểm thực hiện quyền khởi kiện và giải quyết yêu cầu bồi thường tại Tòa án; hay nói cách khác là mở rộng quyền khởi kiện của người yêu cầu bồi thường, cụ thể, sau khi có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại giải quyết yêu cầu bồi thường hoặc có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường theo thủ tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, Luật TNBTCNN năm 2017 cũng quy định nhiều nguyên tắc giải quyết bồi thường của Nhà nước như: “1… 2… 3. Người yêu cầu bồi thường đã yêu cầu một trong các cơ quan giải quyết bồi thường quy định tại khoản 7 Điều 3 của Luật này giải quyết yêu cầu bồi thường và đã được cơ quan đó thụ lý giải quyết thì không được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền khác giải quyết yêu cầubồi thường, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 52 của Luật này…” (Điều 4). Người yêu cầu bồi thường không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường trong trường hợp quyết định giải quyết bồi thường quy định tại Điều 47 của Luật này đã có hiệu lực pháp luật (khoản 4 Điều 52). Nguyên tắc này đã giới hạn quyền của người yêu cầu bồi thường, chỉ được thực hiện một trong hai quy trình giải quyết bồi thường: Tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường hoặc tại Tòa án có thẩm quyền. Nguyên tắc trên nhằm ổn định các quan hệ pháp lý, hạn chế việc chồng chéo về thẩm quyền, thủ tục; góp phần bảo vệ kỷ cương pháp luật trong giải quyết bồi thường của nhà nước.
Theo Điều 52 Luật TNBTCNN năm 2017, người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường trong các trường hợp sau:
(1) Trong thời hạn 03 năm kể từ ngày nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện ngay ra Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường nếu chưa yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ giải quyết yêu cầu bồi thường (điểm a khoản 1 Điều 52);
(2) Trong thời hạn 03 năm kể từ ngày nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, người yêu cầu bồi thường có quyền khởi kiện ngay ra Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường nếu rút yêu cầu bồi thường trước khi cơ quan giải quyết bồi thường tiến hành xác minh thiệt hại (điểm b khoản 1 Điều 52);
(3) Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết bồi thường của cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại mà người yêu cầu bồi thường không đồng ý với quyết định đó (khoản 2 Điều 52);
(4) Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có biên bản kết quả thương lượng thành giữa cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại với người yêu cầu bồi thường mà cơ quan đó không ra quyết định giải quyết bồi thường (khoản 2 Điều 52);
(5) Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có biên bản kết quả thương lượng không thành giữa cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại với người yêu cầu bồi thường (khoản 2 Điều 52).
Như vậy, căn cứ vào 05 trường hợp mà người yêu cầu bồi thường được quyền khởi kiện tại Tòa án nêu trên, có thể chỉ ra được những bản án, quyết định nào sẽ được thực hiện theo cơ chế bảo đảm tài chính và những bản án, quyết định nào sẽ được thực hiện theo quy trình bồi thường nhà nước. Cụ thể:
(1) Những bản án, quyết định được thực hiện theo thủ tục bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án:
Trước hết, điều kiện chung là bản án, quyết định đó có bên phải thi hành án là cơ quan, tổ chức hoạt động hoàn toàn bằng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp; cơ quan, tổ chức đó đã áp dụng mọi biện pháp tài chính cần thiết theo quy định của pháp luật mà vẫn không có khả năng thi hành án (Điều 65 Luật THADS). Dựa trên tiêu chí chung nêu trên và Điều 4, Điều 52 Luật TNBTCNN năm 2017, có thể cụ thể hóa các dạng bản án, quyết định được thực hiện theo thủ tục bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án, bao gồm:
+ Phần tài sản trong các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính quy định tại khoản 4 Điều 1 Thông tư số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016: Án phí, bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, giao lại đất đai được tuyên cụ thể trong bản án, quyết định của Tòa án.
+ Những bản án, quyết định của Tòa án giải quyết các tranh chấp về dân sự mà bên phải thi hành án là cơ quan, tổ chức hoạt động hoàn toàn bằng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp.
+ Những bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hình sự, trong đó có nội dung tuyên cơ quan, tổ chức hoạt động hoàn toàn bằng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp phải bồi thường cho công dân.
(2) Những bản án, quyết định được thực hiện theo quy trình bồi thường nhà nước
Đối với nội dung này, có thể phân thành 2 nhóm sau đây:
Một là, những bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết bồi thường trong trường hợp người yêu cầu bồi thường chưa từng yêu cầu cơ quan có trách nhiệm giải quyết yêu cầu bồi thường (điểm a khoản 1 Điều 52). Đối với trường hợp này, hiện nay theo quy định khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC thì sẽ được thực hiện theo cơ chế bảo đảm tài chính. Tuy nhiên, kể từ thời điểm Luật TNBTCNN năm 2017 có hiệu lực thi hành (01/8/2018) thì những trường hợp này sẽ được thực hiện theo cơ chế bồi thường nhà nước (mà không phải theo cơ chế bảo đảm tài chính).
Hai là, những bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết bồi thường trong trường hợp người yêu cầu bồi thường đã từng yêu cầu cơ quan có trách nhiệm giải quyết yêu cầu bồi thường. Đối với trường hợp này, khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC quy định: “Trường hợp nghĩa vụ thi hành án của cơ quan, tổ chức phát sinh do người thi hành công vụ gây ra và đã được giải quyết theo trình tự, thủ tục bồi thường nhà nước thì việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thực hiện theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước”. Cụ thể hóa nội dung trên, gồm những trường hợp sau:
- Bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường trong trường hợp người yêu cầu bồi thường đã yêu cầu cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường nhưng rút yêu cầu trước khi cơ quan này tiến hành xác minh thiệt hại (điểm b khoản 1 Điều 52).
- Bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường trong trường hợp người yêu cầu bồi thường không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường của cơ quan có trách nhiệm bồi thường (khoản 2 Điều 52);
- Bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường trong trường hợp đã có biên bản kết quả thương lượng thành giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường với người yêu cầu bồi thường mà cơ quan đó không ra quyết định giải quyết bồi thường (khoản 2 Điều 52);
- Bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường trong trường hợp thương lượng không thành giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường với người yêu cầu bồi thường (khoản 2 Điều 52).
3.2. Khó khăn, vướng mắc
Mặc dù hiện nay khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC có quy định các nghĩa vụ thi hành án của cơ quan, tổ chức phát sinh do người thi hành công vụ gây ra và đã được giải quyết theo trình tự, thủ tục bồi thường nhà nước thì việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thực hiện theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Tuy nhiên, kể từ thời điểm Luật TNBTCNN năm 2017 có hiệu lực thi hành (01/7/2018) thì sẽ có những trường hợp nghĩa vụ thi hành án của cơ quan, tổ chức phát sinh do người thi hành công vụ gây ra mặc dù chưa từng được giải quyết theo trình tự, thủ tục bồi thường nhà nước (trường hợp người bị thiệt hại khởi kiện ngay ra Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Luật TNBTCNN) nhưng vẫn sẽ được thực hiện theo cơ chế bồi thường nhà nước, mà không phải theo cơ chế bảo đảm tài chính, theo đó một vụ việc thi hành án về yêu cầu bồi thường giải quyết tại Tòa án sẽ được điều chỉnh đồng thời bởi Luật THADS và Luật TNBTCNN 2017.
 Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu những quy định mới này, chúng tôi nhận thấy, trong thời gian tới, sẽ phát sinh nhiều trường hợp người yêu cầu bồi thường không yêu cầu giải quyết tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường mà khởi kiện ra Tòa án ngay sau khi có căn cứ bồi thường và những bản án, quyết định này sẽ được thực thi theo cơ chế bồi thường nhà nước. Từ đó, có thể dự báo rằng, khối lượng vụ việc thụ lý giải quyết của Tòa án sẽ tăng; tương ứng với đó, công việc giải quyết bồi thường tại các cơ quan có trách nhiệm bồi thường sẽ giảm, số vụ việc đề nghị bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án cũng sẽ giảm (vì số bản án, quyết định này sẽ được thực hiện theo cơ chế bồi thường nhà nước). Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, đây cũng là một thách thức đối với các cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại, trong đó có các cơ quan THADS. Các cơ quan này sẽ phải đại diện Nhà nước tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn theo khoản 7 Điều 52 Luật TNBTCNN; cơ hội thương lượng với người yêu cầu bồi thường để giảm bớt thiệt hại, giảm các khoản yêu cầu bồi thường sẽ khó hơn; thủ tục tố tụng tại Tòa án có thể sẽ mất nhiều thời gian hơn.
3.3. Một số giải pháp, yêu cầu
- Để thống nhất áp dụng pháp luật, trong trường hợp nghĩa vụ thi hành án của cơ quan, tổ chức phát sinh do người thi hành công vụ gây ra mặc dù chưa từng được giải quyết theo trình tự, thủ tục bồi thường nhà nước (trường hợp người bị thiệt hại khởi kiện ngay ra Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Luật TNBTCNN), thì căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015: Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau”, cơ quan THADS cần áp dụng Luật TNBTCNN năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành để thực hiện.
- Để hạn chế thấp nhất nguy cơ phải thực hiện bồi thường nhà nước, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cân nhắc đầy đủ, kỹ lưỡng và theo đúng quy định của pháp luật trước khi ban hành các văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự theo quy định tại Điều 12 Luật TNBTCNN năm 2017. Vì đây là một trong những căn cứ để tổ chức, cá nhân thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường của mình tại Tòa án và trên thực tế, quá trình xét xử, Tòa án sẽ căn cứ vào chính các văn bản xác định hành vi sai phạm của cơ quan thi hành án dân sự để xác định trách nhiệm bồi thường của cơ quan thi hành án dân sự.
- Ngay từ khi có thông báo của Tòa án về việc thụ lý đơn khởi kiện của đương sự, hoặc giải quyết yêu cầu bồi thường trong vụ án hình sự, hành chính, cơ quan thi hành án dân sự phải tập trung chuẩn bị kỹ lưỡng về nội dung để tham gia hiệu quả tại Tòa án.
- Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải chấp hành nghiêm việc tham gia tố tụng giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước theo triệu tập của Tòa án.
- Cục trưởng Cục thi hành án dân sự có trách nhiệm chỉ đạo và hỗ trợ các Chi cục thi hành án dân sự trực thuộc trong việc việc tham gia tố tụng giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước theo triệu tập của Tòa án; khi được triệu tập tham gia tố tụng trong các vụ án giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước, cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm bồi thường phải báo cáo cơ quan quản lý cấp trên và Tổng cục thi hành án dân sự biết để kịp thời chỉ đạo.
Tóm lại, với chức năng, nhiệm vụ mà Vụ Nghiệp vụ 3 được giao, chúng tôi nhận thấy, bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi hành án và bồi thường nhà nước trong THADS hiện nay là những vấn đề cần phải quan tâm, nghiên cứu để có những đề xuất cụ thể, thiết thực nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc; nhất là khi Luật TNBTCNN năm 2017 có hiệu lực (ngày 01/7/2018), với những sửa đổi, bổ sung cơ bản về trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường. Trong thời gian tới, Tổng cục THADS cần có những hướng dẫn cụ thể về vấn đề phân biệt với cơ chế bồi thường nhà nước như đã nêu trên để các cơ quan THADS nghiên cứu thực hiện, đảm bảo đúng pháp luật và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chính các công chức, cơ quan THADS và Nhà nước.
Vụ Nghiệp vụ 3, Tổng cục THADS