Phát huy vai trò chủ động của chấp hành viên – Góc nhìn từ quyền hạn

23/10/2018
Thi hành án dân sự là hoạt động nhằm đảm bảo các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án và các quyết định khác được thi hành theo đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình tổ chức thi hành án, vai trò của chấp hành viên đặc biệt quan trọng, là người giữ vị trí trung tâm của mọi hoạt động thi hành án dân sự (THADS). Theo quy định tại Điều 17 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 (sau đây gọi tắt là Luật THADS) thì chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại Điều 2 của Luật THADS. Chấp hành viên có ba ngạch là: Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp. Nhiệm vụ, quyền hạn và các vấn đề liên quan đến chấp hành viên được quy định cụ thể tại Luật THADS (Từ Điều 17 đến Điều 21 và Điều 25 Luật THADS). 
 


Một trong các phương hướng quan trọng của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đó là “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ; tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức danh... ”.Thực tiễn cho thấy, việc phát huy đầy đủ và toàn diện những quyền hạn, trách nhiệm của chấp hành viên có một ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với quá trình tổ chức thi hành án mà còn góp phần hoàn thiện các quy định về chức danh tư pháp, đảm bảo hiệu quả công cuộc cải cách tư pháp của nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, trong thực tiễn tổ chức THADS, việc đảm bảo thực thi quyền hạn và vai trò của chấp hành viên vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hết tính chủ động của chấp hành viên trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Trong phạm vi bài viết, nhóm tác giả đi sâu phân tích một số vấn đề còn bất cập trong các quy định của pháp luật liên quan đến việc thực thi quyền hạn của chấp hành viên, qua đó đưa ra một số kiến nghị nhằm phát huy vai trò chủ động của chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án, góp phần nâng cao địa vị pháp lý của chấp hành viên.
Thứ nhất: Về thực hiện quyền yêu cầu của chấp hành viên
Quyền yêu cầu của chấp hành viên được hiểu là quyền hạn mà chấp hành viên được quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện hoặc không thực hiện công việc nhất định. Quyền yêu cầu của chấp hành viên quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau, chủ yếu và cơ bản nhất được thể hiện trong Luật THADS. Đây là một quyền hạn quan trọng trong thực thi công vụ của chấp hành viên. Quyền yêu cầu của chấp hành viên bao gồm một số nội dung cơ bản như: Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án; Yêu cầu cơ quan công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy định của pháp luật; Yêu cầu người phải thi hành án phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp các thông tin, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của người phải thi hành án phong tỏa tài khoản, tài sản;…
Có thể nhận thấy pháp luật quy định khá nhiều các quyền yêu cầu của chấp hành viên. Số lượng, tính chất của yêu cầu, phạm vi mà chấp hành viên được quyền yêu cầu là khá rộng. Điều này là hoàn toàn phù hợp với một chức danh tư pháp được pháp luật giao nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức THADS. Pháp luật THADS đã quy định cho phép chấp hành viên được quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện hoặc không thực hiện các công việc nhất định. Tuy nhiên, trong thực tiễn tổ chức THADS vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định như sau:
Một là: Pháp luật chưa phân định rõ quyền hạn hay nhiệm vụ của chấp hành viên trong việc yêu cầu
Nếu hiểu “yêu cầu là quyền hạn của chấp hành viên”, thì chấp hành viên có quyền thực hiện trong hạn định cho phép của quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, nếu hiểu đó là quyền và đồng thời là nhiệm vụ hoặc là trách nhiệm của chấp hành viên thì chấp hành viên phải thực hiện, không thực hiện tức là vi phạm thủ tục và trình tự tổ chức thi hành án. Vì vậy, Luật quy định rất nhiều quyền yêu cầu cho chấp hành viên nhưng để phân biệt đó là “quyền hạn” hay đó là quyền hạn đồng thời là nhiệm vụ hoặc trách nhiệm của chấp hành viên thì không hề dễ dàng.
Bên cạnh đó, có những quy phạm pháp luật của Luật THADS là quyền hạn của chấp hành viên, nhưng văn bản hướng dẫn lại quy định như là một quyền hạn thuộc về trách nhiệm, nghĩa vụ, nhiệm vụ phải làm của chấp hành viên.
Ví dụ: Theo quy định tại khoản 1 Điều 44 Luật THADS về xác minh điều kiện thi hành án thì: “Người phải thi hành án phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình”.Quy phạm pháp luật nêu trên được hiểu đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của người phải thi hành án. Trong quá trình xác minh, chấp hành viên có quyền hướng dẫn hay không hướng dẫn người phải thi hành án kê khai về điều kiện thi hành án tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, nội dung xác minh. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP  ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS (sau đây gọi tắt là Nghị định số 62/2015/NĐ-CP) lại hướng dẫn: khi tiến hành xác minh chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án …”. Như vậy, quyền yêu cầu của chấp hành viên trong trường hợp này lại biến thành nhiệm vụ, trách nhiệm của chấp hành viên. Trường hợp, chấp hành viên tổ chức xác minh mà bỏ qua trình tự, thủ tục yêu cầu người phải thi hành án kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án là vi phạm và rất dễ bị đương sự khiếu nại, người có thẩm quyền kết luận, kiến nghị vi phạm trình tự, thủ tục xác minh,..
Hai là: Một số quy định pháp luật liên quan đến thẩm quyền của chấp hành viên còn chưa thống nhất dẫn đến khó khăn cho việc áp dụng
Ví dụ:  Đối với việc xử phạt vi phạm hành chính, theo quy định tại theo Điều 49 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 , Điều 68 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, THADS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (Nghị định số 110/2013/NĐ-CP) thì mức xử phạt tối đa mà chấp hành viên có quyền áp dụng là 500.000 đồng. Theo đúng quy định thì chấp hành viên chỉ có thể xử phạt duy nhất đối với một hành vi là đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai của người có thẩm quyền thi hành án nhưng không đến địa điểm ghi trong giấy báo, giấy triệu tập mà không có lý do chính đáng. Trong khi đó có rất nhiều hành vi vi phạm mà chấp hành viên và cơ quan THADS cấp huyện thường xuyên gặp phải nhưng theo quy định thì lại không thuộc thẩm quyền xử phạt, ví dụ như các hành vi: Không thực hiện công việc phải làm, không chấm dứt thực hiện công việc không được làm theo bản án, quyết định; trì hoãn thực hiện nghĩa vụ thi hành án…Mặt khác bản thân nội bộ quy định pháp luật cũng có sự mâu thuẫn, dẫn đến khó khăn cho chấp hành viên khi tiến hành áp dụng. Ví dụ: Điều 52 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định mức xử phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi không kê khai trung thực tài sản, điều kiện thi hành án. Tại Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định:“Trường hợp người phải thi hành án không kê khai hoặc phát hiện việc kê khai không trung thực thì tùy theo mức độ vi phạm, chấp hành viên có thể xử phạt hoặc đề nghị người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên theo quy định tại Điều 68, Điều 52 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP thì mức phạt tiền tối đa mà chấp hành viên được áp dụng là 500.000đ, do đó Chấp hành viên không thể trực tiếp xử phạt vi phạm hành chính đối với trường hợp này mà phải đề nghị người có thẩm quyền xử phạt, việc này cũng gây kéo dài thời gian tổ chức thi hành án..
Ba là: Một số yêu cầu của chấp hành viên chưa được tôn trọng
Mục đích của yêu cầu của chấp hành viên phụ thuộc và nội dung, tính chất của mỗi yêu cầu và đều nhằm mục đích là thực hiện được đúng, đầy đủ nội dung quyết định thi hành án, đảm bảo bản án, quyết định được thi hành trên thực tế.Tuy nhiên, qua thực tiễn tổ chức thi hành án, một số yêu cầu của chấp hành viên không được tôn trọng, không đạt được mục đích và hiệu quả đề ra. Bởi lẽ, quy định về yêu cầu còn mang tính hình thức, nhất là các yêu cầu liên quan đến người phải thi hành án.
Ví dụ: Về yêu cầu người phải thi hành án phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình. Quy định này nhằm khuyến khích sự tự nguyện thi hành án, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, ràng buộc trách nhiệm của người phải thi hành án đối với nghĩa vụ thi hành án, đồng thời nhằm giảm tải trách nhiệm của chấp hành viên, chi phí của nhà nước trong việc xác minh điều kiện thi hành án, đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên thực tế người phải thi hành án rất hiếm khi tự nguyện kê khai thông tin tài sản, thu nhập của mình.  Khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành, không tự nguyện giao tài sản để thi hành án, thì việc yêu cầu họ kê khai điều kiện thi hành án liệu có mang lại hiệu quả? Đa số quan điểm cho rằng việc yêu cầu này chỉ là hình thức, không thật sự cần thiết và không hiệu quả.
Về yêu cầu đương sự thỏa thuận về mức giảm giá tài sản: Theo quy định tại Điều 104 Luật THADS: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của tổ chức bán đấu giá về việc tài sản đưa ra bán đấu giá lần đầu nhưng không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì chấp hành viên thông báo và yêu cầu đương sự thỏa thuận về mức giảm giá tài sản”. Tuy nhiên nhiều quan điểm cho rằng quy định về yêu cầu này của chấp hành viên cũng là không cần thiết, khi mà pháp luật đã có rất nhiều các quy phạm bảo đảm cho các đương sự có quyền thỏa thuận, định đoạt việc thi hành án trong toàn bộ quá trình thi hành án. Việc quy định thêm việc thỏa thuận này chỉ làm tăng trình tự, thủ tục thi hành án chứ không giúp việc giải quyết thi hành án nhanh chóng, hiệu quả hơn. Bởi vì, trường hợp đương sự hợp tác, thỏa thuận được với nhau, thì việc giảm giá này thực hiện được căn cứ theo quy định tại Điều 6 Luật THADS là thực hiện được mà không cần phải quy định thêm một khoản thành “trình tự’. “thủ tục” riêng biệt, bắt buộc.
Về yêu cầu người phải thi hành án ký hợp đồng khai thác tài sản với tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác tài sản; Quyền yêu cầu này cũng là trách nhiệm, nghĩa vụ của chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án. Tuy nhiên, từ thực tiễn có thể nhận thấy rất ít các trường hợp áp dụng quy phạm pháp luật này để thi hành án thành công. Theo quy định tại Điều 107 Luật THADS, khi người phải thi hành án có nghĩa vụ trả tiền nhưng không tự nguyện thi hành, thì chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế khai thác tài sản để thi hành án trong các trường hợp sau: (i) Khi người phải thi hành án có tài sản có giá trị quá lớn so với nghĩa vụ phải thi hành án và tài sản đó có thể khai thác để thi hành án; (ii) Khi người được thi hành án đồng ý cưỡng chế khai thác tài sản để thi hành án nếu việc khai thác tài sản không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Việc cưỡng chế khai thác đối với tài sản để thi hành án là một biện pháp cần thiết để thực thi nghĩa vụ của người phải thi hành án. Nhưng việc yêu cầu người phải thi hành án ký kết hợp đồng khai thác tài sản với tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác tài sản liệu có thiết thực và hiệu quả? Trong thực tế, điều này là không hề đơn giản, dễ dàng để buộc người phải thi hành án phải ký kết hợp đồng khai thác mà có thể thấy sự hiện hữu của việc kéo dài thời gian, trình tự, thủ tục thi hành án.
Thứ ba, quyền yêu cầu của chấp hành viên còn thụ động
Quyền yêu cầu của chấp hành viên được pháp luật quy định dành riêng cho cá nhân chấp hành viên. Tuy nhiên, trong thực tiễn, nhiều cơ quan, đơn vị khi thực hiện các yêu cầu liên quan đến các cơ quan, tổ chức nhất là các cơ quan, tổ chức của Nhà nước thường nhân danh cơ quan, đơn vị đó và người ký văn bản thường là thủ trưởng hoặc cấp phó được ủy quyền. Ví dụ: Các văn bản yêu cầu cung cấp thông tin về quyền sử dụng đất gửi đến cơ quan quản lý đất đai; các yêu cầu chia phân chia tài sản chung, yêu cầu giải thích rõ việc xử lý tài sản gửi đến Tòa án các cấp; lịch phối hợp công tác với địa phương…Lý giải cho các hoạt động này xuất phát từ quan niệm cho rằng các văn bản gửi đến các cơ quan, tổ chức cần phải được tôn trọng và nhân danh của cơ quan, đơn vị chứ không thể nhân danh chấp hành viên. Tuy nhiên, xét từ góc độ pháp lý thì việc này cũng gây những hạn chế về tính chủ động, tính trách nhiệm của chấp hành viên.
Thứ hai: Về tính chủ động của chấp hành viên khi áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án
Pháp luật THADS đã quy định cụ thể chấp hành viên có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án, tuy nhiên thực tiễn áp dụng còn gặp rất nhiều khó khăn
Đối với biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ, Điều 68 Luật THADS quy định “Chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu cầu của chấp hành viên trong việc tạm giữ tài sản, giấy tờ”. Theo quy định của khoản 1 Điều 18 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì trong trường hợp cần thiết, chấp hành viên yêu cầu lực lượng công an hoặc tổ chức, cá nhân khác hỗ trợ việc tạm giữ tài sản, giấy tờ để thi hành án. Tuy nhiên, quá trình thực hiện quy định này cũng phát sinh một số khó khăn như: Khi đương sự chống đối việc tạm giữ tài sản, chấp hành viên đề nghị lực lượng công an hỗ trợ để thực hiện việc tạm giữ nhưng bị lực lượng công an từ chối với lý do theo quy định của Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày 30/3/2012 của Bộ Tư pháp và Bộ Công an chỉ quy định về phối hợp bảo về cưỡng chế trong thi hành án dân sự, còn việc hỗ trợ chấp hành viên trong việc áp dụng biện pháp bảo đảm như tạm giữ tài sản do chưa có văn bản quy định cho nên không cử lực lượng tham gia. Mặt khác, trong trường hợp đương sự chống đối, việc bảo đảm sức khỏe cho người phải thi hành án, chấp hành viên… cũng là một vấn đề cần đặt ra.  
Đối với việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế: Luật ko giới hạn việc áp dụng biện pháp cưỡng chế và số lần áp dụng biện pháp cưỡng chế, chấp hành viên có quyền tự lựa chọn biện pháp cưỡng chế phù hợp, tuy nhiên thực tế cho thấy để thực hiện được việc cưỡng chế, chấp hành viên phải phối hợp với rất nhiều các cơ quan hữu quan, Ví dụ: Cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản, cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất… Nếu không nhận được sự đồng thuận của các cơ quan hữu quan thì việc cưỡng chế thi hành án gặp rất nhiều trở ngại.
Thứ ba: Về quyền được pháp luật bảo vệ của chấp hành viên
Điều 20 Luật THADS quy định: “Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín”. Nếu như, quyền của chấp hành viên gắn liền với trách nhiệm (quyền hạn) nói chung, hay quyền yêu cầu của chấp hành viên nói riêng được quy định khá cụ thể, chi tiết trong Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành, thì ngược lại, quyền được pháp luật bảo vệ của chấp hành viên lại nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Ví dụ:Để bảo vệ chấp hành viên đối với hành vi tố cáo sai sự thật của người tố cáo thì được quy định ở Luật THADS, Luật Tố cáo, Luật Xử phạt vi phạm hành chính, Bộ luật Hình sự,… Quyền được pháp luật bảo vệ của chấp hành viên, bao gồm: Quyền được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe; quyền được pháp luật bảo vệ về danh dự, nhân phẩm và uy tín;… Như vậy, quyền được pháp luật bảo vệ của chấp hành viên có nội hàm không rộng, nhưng nó lại có phạm vi quan hệ bao trùm lên toàn bộ quá trình hoạt động của chấp hành viên. Vì vậy, việc xem xét bảo vệ chấp hành viên không phải là là điều đơn giản, nếu không muốn nói là khá khó khăn, phức tạp. Nhìn từ các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn công tác THADS, thì có khá nhiều quy phạm pháp luật nhằm bảo vệ chấp hành viên nhưng việc áp dụng chúng lại không thật dễ dàng. Bên cạnh đó, pháp luật vẫn còn những “khoảng trống” trong cơ chế bảo vệ chấp hành viên.
Trong quá trình tổ chức thi hành án, pháp luật quy định rất nhiều trình tự, thủ tục yêu cầu chấp hành viên phải thực hiện, nhưng các cơ quan quản lý THADS vẫn chưa đánh giá được mất bao nhiêu thời gian để chấp hành viên thực hiện những trình tự, thủ tục đó và khả năng một chấp hành viên có năng lực khá, một năm thực hiện được bao nhiêu vụ việc thi hành án? và khi chưa đánh giá được thời gian thực hiện thì thật khó khăn để đưa ra quy định “mức trần” cho chấp hành viên một năm phải thực thi bao nhiêu vụ việc thi hành án và qua đó để giao chỉ tiêu, biên chế cũng như đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, năng lực và bảo vệ chấp hành viên khỏi những áp lực nhất định. Mặc dù chưa có quy định mức trần, nhưng trách nhiệm chấp hành viên là ngang nhau, các yêu cầu từ các quy phạm pháp luật phải thực hiện. Như vậy, chấp hành viên thi hành 100 việc/năm cũng giống như chấp hành viên thi hành 500, 700, 1000… việc/năm. Số lượng công việc nhiều chắc chắn phải chịu rủi ro nhiều, thời gian thì có hạn không thể kéo dài; trình tự, thủ tục, trách nhiệm pháp lý đã được luật hóa. Vậy thì, những rủi ro, những vi phạm do quá tải công việc của chấp hành viên thì cơ chế nào và ai sẽ bảo vệ họ?
Nếu bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm có sai sót, sai lầm khi áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc, vụ án thì cấp phúc thẩm có thể sửa sai và ngay cả khi bản án đã có hiệu lực pháp luật mà có căn cứ thì còn có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm,.. và trách nhiệm của người ra bản án sai cũng chỉ ở mức giải trình nếu là lỗi nhận thức áp dụng pháp luật,.. Nhưng chấp hành viên áp dụng sai thì hậu quả pháp lý vô cùng nặng nề, mặc dù có thể đó là lỗi vô ý, lỗi do khách quan (ví dụ như số lượng, áp lực công việc dẫn đến không thể thực hiện được đúng thời gian luật định).Đây cũng chính là một “khoảng trống” trong việc bảo vệ chấp hành viên, bảo vệ tính công bằng, tính hợp lý cũng như đánh giá đúng năng lực, hiệu quả công tác và bảo vệ uy tín, danh dự, nhân phẩm cho chấp hành viên.
Theo quy định của pháp luật THADS thì “… khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn… được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín”. Tuy nhiên, nhìn từ thực tiễn, việc đảm bảo quyền được bảo vệ của chấp hành viên vẫn chưa thực sự được chú trọng. Thủ tục hay cơ chế xử lý những người, những hành vi xâm phạm sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm của chấp hành viên chưa thật sự rõ ràng và chưa thực sự mang lại hiệu quả như mong đợi,ví dụ: Đương sự lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo chấp hành viên để nhằm kéo dài thời gian thi hành án hoặc gây áp lực cho chấp hành viên hoặc cả hai mục đích đó. Nhưng hành vi lợi dụng quyền khiếu nại, quyền tố cáo để gây áp lực cho cơ quan THADS, chấp hành viên và nhiều trường hợp xâm phạm trực tiếp đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của chấp hành viên lại rất khó xử lý.
Xét từ thực tiễn, rất ít khi người giải quyết tố cáo trong THADS xử lý hành vi tố cáo sai sự thật hay lợi dụng việc tố cáo để xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín. Việc xử lý hai hành vi nêu trên chỉ có thể là xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi “cố ý” tố cáo sai sự thật hay “lợi dụng” việc tố cáo để xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của chấp hành viên thì các quy định pháp luật vẫn chưa thật sự rõ ràng, mặt khác cũng rất khó chứng minh thiệt hại để yêu cầu bồi thường, dẫn đến việc bảo vệ quyền lợi, danh dự, uy tín của chấp hành viên còn nhiều bất cập.
Dưới đây là một số kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa vai trò chủ động của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự.
Thứ nhất: Cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền, quyền hạn của chấp hành viên để đảm bảo việc áp dụng pháp luật thiết thực, hiệu quả. Cần có sự tách bạch rõ ràng về mặt quy định liên quan đến quyền hạn của chấp hành viên và điều luật quy định về nhiệm vụ, trách nhiệm của chấp hành viên. Quyền hạn của chấp hành viên thì chấp hành viên có quyền thực hiện trong mức độ, hạn định mà quy phạm pháp luật cho phép. Còn nhiệm vụ, trách nhiệm chấp hành viên buộc phải tuân theo, thực hiện, nếu không thực hiện, thực hiện không đúng, không đủ,… thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thứ hai: Cơ quan THADS cần tôn trọng quyền hạn của chấp hành viên trong việc thực hiện các yêu cầu nhân danh chấp hành viên đúng theo quy định của pháp luật. Điều đó đảm bảo cho hoạt động của chấp hành viên được chủ động, đảm bảo tính trách nhiệm pháp lý của chấp hành viên đối với yêu cầu của mình. Đồng thời, cần có sự tổng hợp, nghiên cứu một cách có hệ thống về ví trí, việc làm của chấp hành viên, qua đó đánh giá được đúng những công việc mà chấp hành viên phải thực hiện, thời gian và công sức thực hiện công việc. Từ đó, định lượng được tổng số vụ việc mà chấp hành viên có thể thực hiện được và hoàn thành tốt trong một năm công tác. Trường hợp phải thực hiện nhiều hơn số lượng bình quân thì có cơ chế giảm thiểu trách nhiệm cho người thực hiện và trường hợp bằng hoặc ít hơn con số trung bình thì phải yêu cầu trách nhiệm cao hơn,..
Thứ ba: Cần xây dựng cơ chế pháp lý hữu hiệu bảo vệ chấp hành viên. Kiên quyết, quyết liệt xử lý những hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của chấp hành viên. Nhất là, những hành vi cố ý khiếu nại, tố cáo sai sự thật, khiếu nại nhiều lần nhằm cản trở việc tổ chức thi hành án hoặc hành vi cố ý tố cáo sai sự thật, lợi dụng việc tố cáo để xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của chấp hành viên.
“Công lý chỉ có ý nghĩa khi và chỉ khi quyết định của Tòa án được đưa ra thi hành”.Với vị trí trung tâm của hoạt động thi hành án, chấp hành viên có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hiệu quả tổ chức thi hành án. Nâng cao vai trò, tính chủ động của chấp hành viên trong thực tiễn công tác THADS là một việc làm có ý nghĩa vô cùng  quan trọng và cần thiết, đảm bảo thực thi công lý, công bằng, hiệu quả, góp phần thực hiện thành công công cuộc cải cách tư pháp của Đảng và nhà nước ta hiện nay.
Đồng tác giả: Ths.Đinh Duy Bằng-Văn phòng Luật sư Trường Thành & Ths. Hoàng Thị Thanh Hoa- Chi cục THADS huyện Phú Xuyên, Hà Nội