Tìm hiểu quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 trong lĩnh vực thi hành án dân sự

13/07/2017
 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật[1]” và “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật[2]”. Để bảo đảm thực hiện tốt quyền con người và những quyền cơ bản của công dân theo quy định nêu trên của Hiến pháp và những văn bản pháp luật mới có liên quan, ngày 20 tháng 6 năm 2017, Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2018 (sau đây gọi tắt là Luật TNBTNN năm 2017), thay thế cho Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 (sau đây gọi tắt là Luật TNBTNN năm 2009).
 
[1] Khoản 1 Điều 14.
[2] Khoản 5 Điều 31.


Thi hành án dân sự cũng là một trong những lĩnh vực thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo quy định của Luật TNBBNN năm 2017. Bên cạnh vai trò bảo đảm mọi bản án đã có hiệu lực phải được thi hành nhằm bảo đảm thực thi công lý trên thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, của Nhà nước và của nhân dân thì Thi hành án dân sự cũng là lĩnh vực có thể phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do hành vi vi phạm pháp luật của Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thi hành án. Theo Báo cáo kết quả tổng kết 06 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, kể từ thời điểm Luật TNBTNN năm 2009 có hiệu lực (ngày 01/01/2010) tính đến ngày 31/12/2015, tổng số vụ việc yêu cầu bồi thường đã được thụ lý trong lĩnh vực thi hành án dân sự là 38 vụ việc, trong đó, số vụ việc đã giải quyết là 26 vụ việc (chiếm tỷ lệ 68,4 %), với số tiền Nhà nước phải bồi thường là 9 tỷ 118 triệu 106 nghìn đồng, còn 12 vụ việc đang trong quá trình giải quyết[1]. Về việc thực hiện trách nhiệm hoàn trả, theo kết quả của Báo cáo này trong khoảng thời gian nêu trên, trong lĩnh vực thi hành án dân sự đã thực hiện trách nhiệm hoàn trả đối với 12 vụ việc, với số tiền hoàn trả là 280 triệu đồng[2].
Qua số liệu tổng kết nêu trên cho thấy trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự là đáng kể, trong khi mức hoàn trả đối với các vụ việc phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước còn ở mức độ nhất định. Để góp phần hạn chế những sai phạm (nếu có) phát sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự, ngoài việc nắm vững các quy định của pháp luật thi hành án dân sự và các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan thì việc cập nhật, tìm hiểu rõ quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là hết sức cần thiết.  Bài viết dưới đây sẽ giới thiệu những nội dung cơ bản về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự theo quy định của Luật TNBTNN năm 2017.
1. Một số vấn đề chung
Một là, về phạm vi điều chỉnh. Kế thừa quy định của Luật TNBTNN năm 2009, Luật TNBTNN năm 2017 tiếp tục quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong nhiều lĩnh vực hoạt động của bộ máy nhà nước, bao gồm hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Như vậy, thi hành án dân sự là một trong những lĩnh vực phải thực hiện trách nhiệm bồi thường của nhà nước nếu thuộc một trong các trường hợp phải bồi thường theo quy định. 
Hai là, về thời hiệu yêu cầu bồi thường. Trước khi thông qua Luật TNBTNN năm 2017, về vấn đề thời hiệu yêu cầu bồi thường, có ý kiến đề nghị không quy định thời hiệu yêu cầu bồi thường; có ý kiến đề nghị kéo dài hoặc bỏ thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp bị kết án oan; có ý kiến đề nghị không áp dụng thời hiệu đối với yêu cầu phục hồi danh dự. Tuy nhiên, theo Báo cáo số 111/BC-UBTVQH14 ngày 17 tháng 5 năm 2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, theo quy định tại Điều 149 Bộ luật Dân sự thì “Thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định. Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan”. Việc thực hiện quyền của các chủ thể trong mọi mối quan hệ luôn gắn với thời hiệu, trừ trường hợp luật quy định không áp dụng thời hiệu hoặc có thỏa thuận khác không trái pháp luật. Trong quan hệ bồi thường nhà nước, việc quy định thời hiệu là cần thiết, phù hợp với tính chất của mối quan hệ giữa các chủ thể, trong đó một bên là Nhà nước và một bên là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại, đồng thời bảo đảm thống nhất với quy định của Bộ luật Dân sự về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Do đó, Luật TNBTNN năm 2017 quy định về thời hiệu yêu cầu bồi thường như sau: “1. Thời hiệu yêu cầu bồi thường là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu bồi thường quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 5 của Luật này nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 52 của Luật này và trường hợp yêu cầu phục hồi danh dự.
2. Thời hiệu yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hành chính được xác định theo thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính.
3. Thời gian không tính vào thời hiệu yêu cầu bồi thường:
a) Khoảng thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật Dân sự làm cho người có quyền yêu cầu bồi thường quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 5 của Luật này không thể thực hiện được quyền yêu cầu bồi thường;
b) Khoảng thời gian mà người bị thiệt hại là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi chưa có người đại diện theo quy định của pháp luật hoặc người đại diện đã chết hoặc không thể tiếp tục là người đại diện cho tới khi có người đại diện mới.
4. Người yêu cầu bồi thường có nghĩa vụ chứng minh khoảng thời gian không tính vào thời hiệu quy định tại khoản 3 Điều này”.
Việc kéo dài thời hiệu yêu cầu bồi thường từ 02 năm (Luật TNBTNN năm 2009) lên 03 năm như vậy là cần thiết vì theo kết quả tổng kết 6 năm thực hiện Luật TNBTNN năm 2009 cho thấy trên thực tế có nhiều trường hợp người dân mặc dù thuộc trường hợp được bồi thường theo quy định của Luật TNBTNN năm 2009 nhưng do không biết đến Luật nên họ không thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình và đến khi biết đến Luật, họ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thì khi đó yêu cầu bồi thường của họ không được thụ lý vì đến thời điểm họ yêu cầu bồi thường thì đã hết thời hiệu theo quy định của Luật[3].
Ba là, căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Luật TNBTNN năm 2017 đã quy định rõ ràng căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại. Theo đó, Điều 7 Luật TNBTNN năm 2017 về căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định:
“1. Nhà nước có trách nhiệm bồi thường khi có đủ các căn cứ sau đây: 
a) Có một trong các căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại và yêu cầu bồi thường tương ứng quy định tại khoản 2 Điều này;
b) Có thiệt hại thực tế của người bị thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo quy định của Luật này;
c) Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại”.
Khoản 2 Điều 7 Luật TNBTNN 2017 quy định căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại và yêu cầu bồi thường tương ứng bao gồm:
“a) Có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật này và có yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại hoặc Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự giải quyết yêu cầu bồi thường;
b) Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính đã xác định có hành vi trái pháp luật của người bị kiện là người thi hành công vụ gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và có yêu cầu bồi thường trước hoặc tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại;
c) Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự đã xác định có hành vi trái pháp luật của bị cáo là người thi hành công vụ gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và có yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hình sự”.
Bốn là, căn cứ yêu cầu bồi thường trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Căn cứ yêu cầu bồi thường là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành nên trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật TNBTNN năm 2017, trong đó có lĩnh vực thi hành án dân sự. Khoản 5 Điều 3 Luật TNBTNN năm 2007 quy định văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường là văn bản đã có hiệu lực pháp luật do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định, trong đó xác định rõ hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ hoặc là bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định rõ người bị thiệt hại thuộc trường hợp được Nhà nước bồi thường.
Văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường là một trong những căn cứ để xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại, qua đó làm căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Đây cũng là một trong những nguyên tắc bồi thường của Nhà nước được quy định mới trong Luật TNBTNN năm 2017. Theo đó, khoản 4 Điều 4 Luật TNBTNN năm 2017 quy định: “Nhà nước giải quyết yêu cầu bồi thường sau khi có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường hoặc kết hợp giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính tại Tòa án đối với yêu cầu bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự, thi hành án dân sự theo quy định của Luật này”.
Trong hoạt động thi hành án dân sự, văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường được quy định tại Điều 21 của Luật TNBTNN năm 2017, bao gồm:
“1. Bản án, quyết định của Tòa án có thẩm quyền xác định rõ hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ;
2. Quyết định giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự chấp nhận một phần hoặc toàn bộ nội dung khiếu nại của người khiếu nại;
3. Quyết định hủy, thu hồi, sửa đổi, bổ sung quyết định về thi hành án vì quyết định đó được ban hành trái pháp luật;
4. Quyết định xử lý hành vi vi phạm pháp luật của người thi hành công vụ bị tố cáo trên cơ sở kết luận nội dung tố cáo theo quy định của pháp luật về tố cáo;
5. Văn bản của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trả lời chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự;
6. Quyết định xử lý kỷ luật người thi hành công vụ do có hành vi trái pháp luật;
7. Văn bản khác theo quy định của pháp luật đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 5 Điều 3 của Luật này”.
2. Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Luật TNBTNN năm 2009 quy định có 08 nhóm quyết định mà cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên ra hoặc không ra, tổ chức thi hành hoặc không tổ chức thi hành có thể sẽ thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, trong đó bao gồm cả quyết định thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án. Tuy nhiên, Luật TNBTNN năm 2017, ngoài việc sửa đổi, bổ sung một số câu từ, đã không quy định nhóm quyết định thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Theo đó, trong lĩnh vực thi hành án dân sự, Luật TNBTNN năm 2017 chỉ quy định có 07 nhóm quyết định thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, cụ thể:
“Điều 21. Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự.
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây:
1. Ra hoặc không ra một trong các quyết định sau đây trái pháp luật:
a) Thi hành án;
b) Hủy, thu hồi, sửa đổi, bổ sung quyết định thi hành án;
c) Áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án;
d) Cưỡng chế thi hành án;
đ) Hoãn thi hành án;
e) Tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án;
g) Tiếp tục thi hành án;
2. Tổ chức thi hành hoặc không tổ chức thi hành một trong các quyết định quy định tại khoản 1 Điều này trái pháp luật”.
3. Thiệt hại được bồi thường trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự được thực hiện theo những quy định chung tại chương 3 của Luật TNBTNN năm 2017, tuy nhiên cần lưu ý một số nội dung sau đây:
Một là, việc trả lại tài sản. Điều 30 Luật TNBTNN năm 2017 quy định “Tài sản bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu trái pháp luật phải được trả lại ngay khi quyết định thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu bị hủy bỏ” (khoản 1) và “việc trả lại tài sản bị kê biên trái pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự” (khoản 3).
Hai là, các thiệt hại Nhà nước không bồi thường trong lĩnh vực thi hành án dân sự được quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật TNBTNN năm 2017 bao gồm:
- Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại;
- Thiệt hại xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù người thi hành công vụ đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và trong khả năng cho phép;
- Thiệt hại xảy ra trong hoàn cảnh người thi hành công vụ muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa trực tiếp lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải có hành động gây ra một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 23 của Luật TNBTNN năm 2017.
Ngoài các thiệt hại không được bồi thường nêu trên, khoản 4 Điều 32 Luật TNBTNN năm 2017 cũng quy định, trong hoạt động thi hành án dân sự, Nhà nước không bồi thường thiệt hại xảy ra khi người thi hành công vụ áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo đúng yêu cầu của đương sự mà gây thiệt hại. Người yêu cầu chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
4. Cơ quan giải quyết bồi thường
Khoản 2 Điều 40 Luật TNBTNN năm 2009 quy định chung chung cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự là cơ quan thi hành án dân sự trực tiếp quản lý người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại. Tuy nhiên, Điều 39 Luật TNBTNN năm 2017 đã quy định cụ thể Cơ quan giải quyết bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự đó là Cục Thi hành án dân sự và Chi cục Thi hành án dân sự.
5. Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường
Một trong những quan điểm chỉ đạo khi xây dựng dự án Luật TNBTNN năm 2017 đó là sửa đổi quy định về quy trình, thủ tục giải quyết bồi thường theo hướng rút ngắn các bước và thời gian giải quyết yêu cầu bồi thường (giảm từ 125 ngày xuống còn trên 50 ngày)[4]. Do đó, Luật TNBTNN năm 2017 được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu công phu, tổng kết thực tiễn giải quyết bồi thường theo quy định của Luật TNBTNN năm 2009, lấy ý kiến các cơ quan trực tiếp giải quyết bồi thường để quy định các thời hạn giải quyết yêu cầu bồi thường bảo đảm tính khả thi[5]. Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường trong lĩnh vực thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại chương V Luật TNBTNN năm 2017.
6. Về kinh phí bồi thường và thủ tục hoàn trả
Trên nguyên tắc việc giải quyết yêu cầu bồi thường được thực hiện kịp thời, công khai, bình đẳng, thiện chí, trung thực, đúng pháp luật; việc cấp phát kinh phí bồi thường, chi trả tiền bồi thường theo hướng đơn giản, nhanh gọn, Luật TNBTNN năm 2017 đã quy định cụ thể về kinh phí bồi thường; lập dự toán kinh phí bồi thường; cấp phát kinh phí bồi thường và chi trả kinh phí bồi thường cũng như quyết toán kinh phí bồi thường tại chương VI Luật TNBTNN năm 2017.
7. Trách nhiệm hoàn trả
Trách nhiệm hoàn trả được quy định cụ thể tại chương VII Luật TNBTNN năm 2017, sau đây là một số nội dung được sửa đổi, bổ sung mới cần lưu ý:
Một là, nghĩa vụ hoàn trả của người thi hành công vụ, được quy định tại Điều 64 Luật TNBTNN năm 2017 như sau:
- Người thi hành công vụ có lỗi gây thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một phần hoặc toàn bộ số tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại.
- Trường hợp có nhiều người thi hành công vụ cùng gây thiệt hại thì những người đó có nghĩa vụ hoàn trả tương ứng với mức độ lỗi của mình và thiệt hại mà Nhà nước phải bồi thường.
Hai là, xác định mức hoàn trả, giảm mức hoàn trả
Luật TNBTNN năm 2009 quy định về nghĩa vụ hoàn trả của người thi hành công vụ như sau: “1. Người thi hành công vụ có lỗi gây ra thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền”[6]. Căn cứ xác định mức hoàn trả theo Luật TNBTNN năm 2009 bao gồm: “a) Mức độ lỗi của người thi hành công vụ; b) Mức độ thiệt hại đã gây ra; c) Điều kiện kinh tế của người thi hành công vụ”[7].
 Và trong trường hợp có nhiều người thi hành công vụ gây ra thiệt hại thì Luật TNBTNN năm 2009 quy định: “Trường hợp nhiều người thi hành công vụ gây ra thiệt hại thì những người đó có nghĩa vụ liên đới hoàn trả; cơ quan có trách nhiệm bồi thường chủ trì, phối hợp với các cơ quan quản lý những người thi hành công vụ gây ra thiệt hại thống nhất xác định mức hoàn trả cho từng cá nhân có nghĩa vụ hoàn trả”[8].
Sau 6 năm triển khai thực hiện Luật TNBTNN năm 2009 cho thấy, Luật TNBTNN năm 2009 chưa quy định rõ ràng, cụ thể về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại, trách nhiệm của người ra quyết định hoàn trả dẫn đến việc hoàn trả của người thi hành công vụ còn bị xem nhẹ và chưa được thực hiện thống nhất. Bên cạnh đó, quy định mức hoàn trả chưa đủ tính răn đe, chưa nâng cao trách nhiệm thi hành công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức[9]. Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa những quy định có tính nguyên tắc trước đây, từ khoản 1 đến khoản 4 Điều 65 Luật TNBTNN năm 2017 đã sửa đổi, bổ sung mới và quy định cụ thể, rõ ràng hơn về mức hoàn trả và giảm mức hoàn trả như sau:
“1. Căn cứ xác định mức hoàn trả bao gồm:
a) Mức độ lỗi của người thi hành công vụ;
b) Số tiền Nhà nước đã bồi thường.
2. Trường hợp có một người thi hành công vụ gây thiệt hại thì mức hoàn trả được xác định như sau:
a) Người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây thiệt hại mà có bản án đã có hiệu lực pháp luật tuyên người đó phạm tội thì phải hoàn trả toàn bộ số tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại;
b) Người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây thiệt hại nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì mức hoàn trả từ 30 đến 50 tháng lương của người đó tại thời điểm có quyết định hoàn trả nhưng tối đa là 50% số tiền mà Nhà nước đã bồi thường;
c) Người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây thiệt hại thì mức hoàn trả từ 03 đến 05 tháng lương của người đó tại thời điểm có quyết định hoàn trả nhưng tối đa là 50% số tiền mà Nhà nước đã bồi thường;
d) Trường hợp 50% số tiền Nhà nước đã bồi thường thấp hơn 30 tháng lương quy định tại điểm b khoản này hoặc thấp hơn 03 tháng lương quy định tại điểm c khoản này thì số tiền người thi hành công vụ phải hoàn trả bằng 50% số tiền Nhà nước đã bồi thường.
3. Trường hợp có nhiều người thi hành công vụ cùng gây thiệt hại thì mức hoàn trả của từng người được xác định tương ứng theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng tổng mức hoàn trả không vượt quá số tiền Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại.
4. Người thi hành công vụ được giảm mức hoàn trả khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ động khắc phục hậu quả;
b) Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trong quá trình giải quyết yêu cầu bồi thường và đã hoàn trả được ít nhất 50% số tiền phải hoàn trả;
c) Người thi hành công vụ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
Thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại quyết định giảm mức hoàn trả nhưng tối đa là 30% trên tổng số tiền phải hoàn trả”.
Để thực hiện tốt công tác thi hành án dân sự góp phần thực hiện thành công chiến lược cải cách tư pháp, đồng thời hạn chế tới mức tối đa những vi phạm thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực này thì việc nghiên cứu, tìm hiểu để hiểu và thực hiện đúng các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hiện hành và Luật TNBTNN năm 2017 ngay sau khi có hiệu lực pháp luật không chỉ là nhiệm vụ riêng của Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự mà còn là một trong những nhiệm vụ chung đối với cán bộ, công chức và người lao động công tác trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
                                                   ThS. Nguyễn Văn Nghĩa, Tổng cục Thi hành án dân sự
 
[1] Báo cáo số 181/BC-BTP ngày 15 tháng 07 năm 2016 của Bộ Tư pháp Tổng kết 06 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, Trang 15.
[3] Báo cáo số 181/BC-BTP ngày 15 tháng 07 năm 2016 của Bộ Tư pháp Tổng kết 06 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, Trang 18.
[4] Tờ trình số 290/TTr-CP ngày 01.09.2016 của Chính phủ về Dự án Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi).
[5] Báo cáo số 111/BC-UBTVQH14 ngày 17 tháng 5 năm 2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giải trình, tiếp thu chỉnh lý dự thảo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi), Trang 15.
[6] Khoản 1 Điều 56.
[7] Khoản 1 Điều 57.
[8] Khoản 2 Điều 57.
[9] Tờ trình số 290/TTr-CP ngày 01.09.2016 của Chính phủ về Dự án Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi).