Thời hạn chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án dân sự được quy định tại Điều 28 Luật Thi hành án dân sự và Điều 485 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Cụ thể:
- Đối với bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất tinh thần của công dân, quyết định về tính hợp pháp của cuộc đình công:
Khoản 2 Điều 28 Luật Thi hành án dân sự và khoản 2 Điều 485 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đều quy định Tòa án
phải chuyển giao bản án, quyết định đó cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định.”
- Đối với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định về tính hợp pháp của cuộc đình công quy định Tòa án
phải chuyển giao quyết định đó cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay sau khi ra quyết định.
- Đối với trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã kê biên tài sản, tạm giữ tài sản, thu giữ vật chứng hoặc thu giữ các tài liệu khác có liên quan đến việc thi hành án thì khi chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án dân sự: quy định Tòa án phải gửi kèm theo bản sao biên bản về việc kê biên, tạm giữ tài sản, thu giữ vật chứng hoặc tài liệu khác có liên quan.
- Đối với bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; bản án quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định của Tòa án giải quyết phá sản
Khoản 1 Điều 28 Luật Thi hành án dân sự quy định thời hạn Tòa án phải chuyển giao bản án, quyết định trên cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền là 30 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực. Còn tại khoản 1 Điều 485 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì quy định thời hạn chuyển giao là 01 tháng kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Như vậy, hai quy định trên tuy có sự khác nhau (về cách tính bằng 30 ngày và bằng 01 tháng) nhưng đều giống nhau về mốc tính (kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật). Mặt khác, theo quy định của
Bộ luật Dân sự năm 2015, tại Điều 146. Quy định về thời hạn, thời điểm tính thời hạn có quy định:”1. ..
c) Một tháng là ba mươi ngày”. Như vậy là không có sự mâu thuẫngiữaquy định của Điều 28 Luật thi hành án dân sự và Điều 485 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về thời hạn chuyển giao bản án, quyết định.
Trả lời bởi:
Vụ Nghiệp vụ 1, Tổng cục Thi hành án dân sự