Gửi bởi:
Thu Hiền
Trả lời có tính chất tham khảo
Về nội dung bạn hỏi, chúng tôi xin trả lời như sau: Tại Điều 14 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 có quy định về bảo mật thông tin, cụ thể là:
"1. Nhân viên, người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được tiết lộ bí mật kinh doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
2. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải bảo đảm bí mật thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi và các giao dịch của khách hàng tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
3. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cung cấp thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi, các giao dịch của khách hàng tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho tổ chức, cá nhân khác, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng".
Như vậy, quy định trên cho thấy, một mặt, Ngân hàng X có trách nhiệm bảo mật thông tin khách hàng, nhưng mặt khác, Ngân hàng X cũng có trách nhiệm thực hiện việc cung cấp thông tin khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Trong hoạt động thi hành án dân sự, về thẩm quyền của Chấp hành viên liên quan đến nội dung này, tại khoản 4 Điều 20 Luật Thi hành án dân sự quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Chấp hành viên như sau: “Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án”. Tại điểm b khoản 6 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự cũng quy định “...Ngân hàng, tổ chức tín dụng khác...đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án;...”. Đồng thời, tại khoản 1 Điều 176Luật Thi hành án dân sự cũng quy định trách nhiệm trong thi hành án dân sự của Kho bạc nhà nước, ngân hàng và tổ chức tín dụng khác phải“Cung cấp đúng, đầy đủ, kịp thời thông tin, số liệu về tài khoản của người phải thi hành án theo yêu cầu của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự”.
Chi tiết nội dung này, tại Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN ngày 14/01/2014 của liên Bộ Tư pháp,Tài chính, Lao động - Thương binh và Xã hội và Ngân hàng nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án và thực hiện phong tỏa, khấu trừ để thi hành án dân sự quy định rõ thời hạn cung cấp thông tin là “không quá 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu của người có thẩm quyền quy định tại Điều 4 của Thông tư liên tịch này.Trong trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án thì việc cung cấp thông tin được thực hiện ngay sau khi nhận được yêu cầu”.
Tại khoản 6 Điều 162 Luật Thi hành án dân sự và tại Điều 52 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã quy định về hành vi vi phạm quy định trong hoạt động thi hành án dân sự đã quy định mức“…
2. Phạt tiền từ 1.000.000đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi không cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền thi hành án mà không có lý do chính đáng”.
Bên cạnh đó, ngày 18/3/2015,Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tư pháp đã ký Quy chế phối hợp số 01/QCLN/NHNNVN-BTP giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tư pháp trong công tác thi hành án dân sự, trong đó thống nhất quy địnhvề nội dung trách nhiệm cung cấp, trao đổi thông tin trong hoạt động thi hành án dân sự.
Như vậy, trong quá trình tổ chức thi hành án, để thi hành án, Chấp hành viên có quyền yêu cầu các ngân hàng, tổ chức tín dụng cung cấp thông tin liên quan (số tài khoản, số dư...) của người phải thi hành án.
Mặt khác, pháp luật cũng quy định trách nhiệm của Chấp hành viên trong việc bảo mật thông tin đã được cung cấp để thi hành án. Theo đó, tại Điều 20 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự đã quy định: “3. Chấp hành viên có trách nhiệm bảo mật các thông tin về tài khoản, tài sản của người phải thi hành án bị áp dụng biện pháp bảo đảm khi được Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi có tài khoản, tài sản cung cấp”. Do đó, việc Ngân hàng X từ chối cung cấp thông tin của ông A người phải thi hành án với lý do “bảo mật thông tin” là chưa phù hợp với các quy định hiện hành.
Trả lời bởi:
Vụ Nghiệp vụ 1 - Tổng cục Thi hành án dân sự