Qua thực tiễn áp dụng pháp luật, nhiều quy định tại Luật Thi hành án dân sự, Nghị định số 62 vẫn chưa quy định cụ thể, chưa đáp ứng được với tình hình thực tế, khó áp dụng trong thực tiễn hoạt động thi hành án, dẫn đến việc thi hành án tồn đọng và kéo dài, ảnh hưởng quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan làm phát sinh khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự. Cụ thể:
Thứ nhất, về chuyển giao bản án, quyết định: Theo quy định tại Điều 28 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung 2014) quy định thời hạn chuyển giao bản án, quyết định. Hiện nay, việc chuyển giao của Tòa án thực hiện chậm, nhiều trường hợp không chuyển giao hoặc Tòa án chuyển giao Bản án sơ thẩm có kháng cáo nhưng không chuyển giao Thông báo kháng cáo do vậy cần quy định Tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển giao bản án, quyết định sơ thẩm kèm theo thông báo kháng cáo và bản án, quyết định phúc thẩm cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án tại Điều 2, Điều 35 Luật Thi hành án dân sự.
Thứ hai, về ủy thác thi hành án dân sự: Luật Thi hành án dân sự, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định Thủ trưởng Cơ quan Thi hành án dân sự phải ủy thác thi hành án cho cơ quan Thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng; đối với loại tài sản khác thì có thể ủy thác cho cơ quan Thi hành án dân sự nơi có tài sản tổ chức thi hành. Nhưng chưa có quy định cụ thể trường hợp người phải thi hành án có tài sản làm việc, cư trú hoặc có trụ sở ở nhiều địa phương thì việc xác định từng phần để ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án nơi người phải thi hành án có điều kiện để thi hành án.
Trường hợp người phải thi hành án có tài sản ở nhiều nơi nhưng cơ quan thi hành án nơi ủy thác chưa xử lý xong tài sản liên quan đến khoản ủy thác, trong khi cơ quan thi hành án nơi ủy thác đang tiến hành xử lý tài sản có liên quan đến khoản ủy thác tại địa bàn thì đương sự đã tẩu tán tài sản nơi khác.....
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định hồ sơ thi hành án phải thể hiện toàn bộ quá trình tổ chức thi hành án của Chấp hành viên đối với việc thi hành án, lưu giữ tất cả các tài liệu đã, đang thực hiện và được lưu trữ theo quy định của pháp luật về lưu trữ.
Theo quy định trên thì hồ sơ ủy thác được đưa vào lưu trữ khi cơ quan Thi hành án dân sự ủy thác nhận được văn bản của cơ quan Thi hành án dân sự nhận ủy thác thông báo về việc nhận được quyết định ủy thác. Tuy nhiên, một số cơ quan nhận ủy thác thi hành án không trả lại hoặc chậm thông báo ủy thác cho cơ quan thi hành án kịp thời vì vậy làm ảnh hưởng đến kết quả thi hành án và chậm hoặc không thực hiện được việc lưu trữ hồ sơ thi hành án theo quy định.
Thứ ba, về thủ tục thanh toán tiền, trả tài sản thi hành án: Theo quy định tại Điều 47 Luật Thi hành án dân sự, Khoản 6 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định trường hợp đương sự tự nguyện giao nhà ở là tài sản duy nhất nhưng số tiền thu được không đủ để thanh toán các nghĩa vụ thi hành án mà người phải thi hành án không còn đủ tiền để thuê nhà ở hoặc tạo lập nơi ở mới thì Chấp hành viên thực hiện theo quy định tại Khoản 5 Điều 115 Luật Thi hành án dân sự.
Tại Khoản 5 Điều 115 Luật Thi hành án dân sự quy định trường hợp cưỡng chế giao nhà là nhà ở duy nhất của người phải thi hành án cho người mua được tài sản bán đấu giá, nếu xét thấy sau khi thanh toán các khoản nghĩa vụ thi hành án mà người phải thi hành án không còn đủ tiền để thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở mới thì trước khi làm thủ tục chi trả cho người được thi hành án, chấp hành viên trích lại từ số tiền bán tài sản một khoản tiền để người phải thi hành án thuê nhà phù hợp với giá thuê nhà trung bình tại địa phương trong thời hạn 01 năm.
Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định rõ việc có trích tiền thuê nhà cho người thứ ba hoặc người có quyền, nghĩa vụ liên quan đã dùng nhà ở duy nhất của mình để đảm bảo cho người phải thi hành án vay tài sản đã được Tòa án tuyên trong bản án, quyết định có được hỗ trợ tiền thuê nhà ở hay không.
Tại khoản 3 điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định: “Trường hợp người được thi hành án là doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế xã hội thì việc chi trả tiền thi hành án thực hiện bằng chuyển khoản.”
Khó khăn vướng mắc trong khi thực hiện là không quy định rõ trường hợp chuyển khoản từ tài khoản gửi tiết kiệm ở Ngân hàng sang tài khoản của đương sự. Vì thực tế những vụ việc chưa giao được tài sản phải gửi tiết kiệm Ngân hàng, cơ quan thi hành án phải làm thủ tục rút tiền về gửi vào tài khoản tạm giữ sau đó mới chuyển vào tài khoản cho đương sự. Như vậy mất rất nhiều thời gian, thủ tục rườm rà, ảnh hưởng đến kết quả thi hành án.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ thì việc thanh toán tiền thi hành án thì Chấp hành viên xác định số tiền được thanh toán của những người được thi hành án đã yêu cầu thi hành án tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Thông tư số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 quy định về thanh toán tiền thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự phải xác định rõ những bản án, quyết định đang trực tiếp tổ chức thi hành có trước thời điểm có quyết định cưỡng chế thi hành án mà có nhiều người được thi hành án để xác định người đã yêu cầu thi hành án, người chưa yêu cầu thi hành án; số tiền được thanh toán của người đã yêu cầu thi hành án và của người chưa yêu cầu thi hành án theo các bản án, quyết định đó. Mặt khác Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ không có quy định rõ người được thi hành án trong một bản án, quyết định của Tòa án hay trong nhiều bản án, quyết định của Tòa án đến thời điểm thanh toán tiền, tài sản.
Như vậy, theo quy định trên thì việc thanh toán tiền thi hành án không còn được ưu tiên thanh toán cho người được thi hành án theo quyết định cưỡng chế thi hành án. Chấp hành viên phải rà soát, xác định những bản án, quyết định có liên quan có trước thời điểm có quyết định cưỡng chế để thực hiện các thủ tục chi trả tiền theo quy định. Việc quy định này về cơ bản đã gây khó khăn cho Chấp hành viên khi tiến hành xử lý tiền thi hành án theo quy định, kéo dài thời gian tổ chức thi hành án.
Thứ tư, về phân chia, xử lý tài sản chung: Theo quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự chỉ quy định chung chung về việc phân chia tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung với người khác chứ không có quy định rõ ràng về việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng. Để cụ thể hóa quy định này được áp dụng dễ dàng hơn thì tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ đã hướng dẫn rõ hơn về việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng, đó là: "Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết; Trường hợp vợ hoặc chồng... không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng... giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ".
Về căn cứ pháp lý quy định Chấp hành viên và Tòa án có quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn thi hành án dân sự như đã nêu trên là vậy nhưng trong thực tiễn việc vận dụng quy định này có vướng mắc như sau:
- Đối với Chấp hành viên: Trong thực tế khi có phát sinh việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng thì một số vụ việc Chấp hành viên không tự mình thực hiện việc xác định, phân chia phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung mà Chấp hành viên hướng dẫn vợ hoặc chồng khởi kiện ra Tòa án để giải quyết, nếu không có ai khởi kiện thì lúc này Chấp hành viên đứng đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung của vợ, chồng. Trong khi việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng đòi hỏi phải tuân thủ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình và các luật có liên quan. Nhất là các quy định về chế độ tài sản chung, riêng của vợ, chồng đối với tài sản là bất động sản rất phức tạp, còn nhiều chồng chéo cho nên Chấp hành viên sẽ gặp khó khăn trong việc xác minh làm rõ về nguồn gốc tài sản, do đó có tiềm ẩn nhiều thiếu sót, thiếu công bằng, thiếu khách quan trong việc xác định, phân chia tài sản chung của vợ, chồng. Vì vậy, việc phân chia tài sản bằng một phán quyết của Tòa án sẽ đảm bảo được tính chính xác và khách quan hơn nên Chấp hành viên chọn cách khởi kiện ra Tòa án là giải pháp hữu hiệu.
- Đối với quy định trường hợp vợ hoặc chồng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo hợp lệ nhưng đa phần đương sự không thực hiện việc khởi kiện ra Tòa. Bởi vì, tâm lý của họ là sợ tài sản của mình bị giảm xuống nên dây dưa, kéo dài thời gian, không muốn thi hành án. Tuy nhiên, Luật quy định cho đương sự có quyền này nên Chấp hành viên cũng phải thực hiện đầy đủ các thủ tục và chờ đến khi hết thời hạn mà họ không khởi kiện thì Chấp hành viên mới thực hiện việc khởi kiện ra Tòa. Từ đó, đã làm cho vụ việc thi hành án lại kéo dài thêm.
- Trên thực tế, người phải thi hành án và các đồng sở hữu, sử dụng tài sản chung thì không bao giờ muốn khởi kiện, bởi vì họ không muốn tài sản của họ bị kê biên xử lý thi hành án. Bên cạnh đó, khi hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên phải tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ. Như vậy, việc kê biên sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người không có nghĩa vụ phải thi hành án, chi phí cho việc kê biên, thẩm định giá, bán đấu giá… cùng phát sinh những tranh chấp khác, trong đó có sự rủi ro mà Chấp hành viên là người phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thứ tư, về xác minh điều kiện thi hành án: Theo quy định tại Điều 44 Luật thi hành án dân sự và khoản 1 Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định: “Khi tiến hành xác minh, chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án,… Chấp hành viên phải nêu rõ trong việc đương sự kê khai hoặc không kê khai tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án”. Thực tế tổ chức thi hành án thì phát sinh một số khó khăn, vướng mắc như: Khi xác minh nhất thiết trong mọi trường hợp Chấp hành viên phải gặp được người phải thi hành án mới lập được biên bản xác minh; chờ việc kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án từ người phải thi hành án nhiều khi là một quy định mang tính hình thức, thực tiễn thi hành hầu như không thực hiện được, người phải thi hành án đa số thường không hợp tác với Chấp hành viên, trốn tránh trách nhiệm.
Trong phối hợp cung cấp thông tin: Trường hợp xác minh tiền trong tài khoản ngân hàng của người phải thi hành án. Thực tế, Ngân hàng và các tổ chức tín dụng luôn bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình theo quy định. Vì vậy, không ít trường hợp khách hàng là người phải thi hành án chuyển hoặc rút hết tiền trong tài khoản khi biết Chấp hành viên xác minh hoặc áp dụng các biện pháp bảo đảm hoặc cưỡng chế.
Trường hợp xác minh điều kiện thi hành án đối với tài sản là bất động sản thì cơ quan thi hành án gặp rất nhiều khó khăn khi yêu cầu cung cấp thông tin địa chính đối với cơ quan quản lý về đất đai; cung cấp hồ sơ vay, thế chấp tài sản đối với Ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
Kết quả xác minh phụ thuộc chủ yếu vào trình độ, kỹ năng của Chấp hành viên, nhất là những vụ việc liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, kỹ thuật và công nghệ cao. Trong khi đó, am hiểu các lĩnh vực chuyên môn của Chấp hành viên là chưa thể đáp ứng yêu cầu như: xác minh vốn trong doanh nghiệp, các tài sản là các thiết bị, khoa học,… Mặc dù Luật THADS có quy định thuê chuyên gia để làm rõ các nội dung cần xác minh nhưng thực tế thuê chuyên gia hết sức khó khăn, vướng mắc vì kinh phí hạn chế.
Ngoài nhưng vấn đề vướng mắc nêu trên còn rất nhiều quy định còn vướng mắc trong thực tiễn thi hành Luật Thi hành án dân sự. Do đó, đề nghị Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp, qua khảo sát cần tham mưu Chính phủ kiến nghị Quốc hội ban hành Luật Thi hành án dân sự mới thay thế Luật thi hành án dân sự năm 2008 và ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ.
Đào Trọng Giáp - Cục trưởng Cục THADS tỉnh