Sign In

Một số lưu ý trong thi hành quyết định phá sản

31/10/2016

          Luật phá sản năm 2014 có nhiều điểm mới cơ bản so với Luật phá sản trước đây. Một trong những điểm mới quan trọng đó là quy định nhiệm vụ và thẩm quyền của cơ quan Thi hành án dân sự trong việc tổ chức thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Nếu như trước đây, việc tham gia giải quyết các vụ án phá sản với tư cách là thành viên của tổ quản lý, thanh lý tài sản do Toà án thành lập và thẩm quyền quyết định trong quá trình giải quyết vụ việc thuộc về thẩm phán toà án, thì nay thẩm quyền, trình tự thủ tục thi hành quyết định tuyên bố phá sản của cơ quan Thi hành án dân sự được thực hiện mang tính độc lập hơn; kết quả giải quyết phá sản trước đây chưa được phản ánh vào kết quả thi hành án thì nay được phản ánh vào kết quả thi hành án của cơ quan Thi hành án dân sự.
         Sau đây là một số quy định cần lưu ý.
          Một là, Luật phá sản năm 2014 quy định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thay thế Tổ quản lý, thanh lý tài sản
          Luật Phá sản năm 2014 đã quy định chế định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thay thế chế định Tổ quản lý, thanh lý tài sản để thực hiện nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp. Căn cứ quy định của pháp luật và tình hình thực tiễn, để thực hiện đúng Luật Phá sản năm 2014, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, khắc phục khó khăn, vướng mắc có thể phát sinh từ hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản được thành lập theo Luật Phá sản năm 2004, cơ quan Thi hành án dân sự mà có Chấp hành viên đang là Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản chưa bị giải thể, thì đề nghị Tòa án có thẩm quyền tiến hành chỉ định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản theo quy định tại Điều 131 Luật Phá sản năm 2014 và khoản 1 Điều 28 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP để thực hiện nhiệm vụ thanh lý, quản lý tài sản. Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn chuyển tiếp, một số Tổ quản lý, thanh lý tài sản đã được thành lập theo Luật Phá sản năm 2004 vẫn tiếp tục hoạt động theo quy định tại Điều 28 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về Quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Cụ thể, đối với các yêu cầu mở thủ tục phá sản đã được Tòa án nhân dân thụ lý trước ngày 01/01/2015 mà đã thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản theo Luật Phá sản năm 2004, nếu đến ngày 01/01/2015 mà Tổ quản lý, thanh lý tài sản chưa thực hiện xong nhiệm vụ, quyền hạn của mình thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đối với vụ việc phá sản đó.
          Hai là, Thẩm quyền, trình tự, thủ tục thi hành các quyết định của Tòa án giải quyết phá sản
Theo khoản 1 Điều 17 Luật Phá sản năm 2014, cơ quan Thi hành án dân sự có trách nhiệm thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định tuyên bố giao dịch vô hiệu, quyết định tuyên bố phá sản và các quyết định khác theo quy định của Luật Phá sản năm 2014.
          Về thời hạn ra quyết định thi hành quyết định tuyên bố phá sản: Theo quy định tại khoản 1 Điều 120 Luật Phá sản năm 2014 thì: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá sản, cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm chủ động ra quyết định thi hành, phân công Chấp hành viên thi hành quyết định tuyên bố phá sản”. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung, quy định “Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền chủ động ra quyết định thi hành án”. Do đó, Cơ quan Thi hành án căn cứ điểm e khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung để xác định thời hạn ra quyết định thi hành án đối với quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.
          Về một số vấn đề liên quan đến nội dung quyết định thi hành án đối với quyết định tuyên bố phá sản: Theo Điều 108 Luật Phá sản năm 2014, quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản có một số nội dung không thuộc thẩm quyền tổ chức thi hành của cơ quan Thi hành án dân sự. Theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định của Tòa án (liên quan đến tài sản, buộc thực hiện công việc hoặc chấm dứt thực hiện công việc). Vì vậy, các khoản thuộc diện thu hồi nợ cho doanh nghiệp phá sản là phần liên quan đến tài sản nên thuộc trách nhiệm thi hành của cơ quan Thi hành án dân sự. Do đó, cơ quan Thi hành án dân sự phải xác định các nội dung của Quyết định tuyên bố phá sản để ra Quyết định thi hành án.
          Về yêu cầu Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc thanh lý tài sản. Theo khoản 1 Điều 45 Luật Phá sản 2014 thì chỉ có Thẩm phán mới có thẩm quyền chỉ định Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc thanh lý, quản lý tài sản. Theo khoản 1 Điều 121 Luật Phá sản năm 2014 quy định “Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên có văn bản yêu cầu Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc thanh lý tài sản”. Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản mà Chấp hành viên có quyền yêu cầu theo khoản 1 Điều 121 Luật Phá sản năm 2014 phải là Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đã được Thẩm phán chỉ định và chỉ được thực hiện khi vẫn còn tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản chưa được thanh lý hoặc chưa được thanh lý xong. Chấp hành viên lập văn bản theo quy định tại khoản 2 Điều 121 Luật Phá sản năm 2014 để yêu cầu Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc thanh lý tài sản.
          Về ủy thác thi hành án khi thi hành Quyết định tuyên bố phá sản: Theo Điều 17 Luật Phá sản năm 2014, cơ quan Thi hành án dân sự có nhiệm vụ thi hành quyết định tuyên bố phá sản (khoản 1). Khi thi hành quyết định tuyên bố phá sản, theo điểm c khoản 2 Điều 120 Luật Phá sản năm 2014, Chấp hành viên có nhiệm vụ thực hiện cưỡng chế để thu hồi tài sản, giao tài sản cho người mua được tài sản trong vụ việc phá sản theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Như vậy, trong quá trình thi hành án đối với quyết định tuyên bố phá sản, khi có căn cứ ủy thác thi hành án, cơ quan Thi hành án dân sự (cơ quan A) có thể ủy thác đến cơ quan Thi hành án dân sự nơi có điều kiện thi hành án theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự (cơ quan B). Sau khi nhận được quyết định phân công của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên phải “Mở một tài khoản tại ngân hàng đứng tên cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành quyết định tuyên bố phá sản để gửi các khoản tiền thu hồi được của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản” (điểm a khoản 2 Điều 120). Như vậy, các khoản tiền thu được từ người mắc nợ sẽ được chuyển vào 01 tài khoản mở tại ngân hàng để thực hiện phương án phân chia theo quyết định tuyên bố phá sản. Khi thực hiện ủy thác thi hành quyết định tuyên bố phá sản, cơ quan Thi hành án dân sự cần lưu ý: Trường hợp ủy thác toàn bộ quyết định thi hành quyết định tuyên bố phá sản cho duy nhất 01 cơ quan thi hành án dân sự (cơ quan B), cơ quan nhận ủy thác (cơ quan B) mở một tài khoản đứng tên cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành quyết định tuyên bố phá sản (cơ quan B) để gửi các khoản tiền thu hồi được của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản và thực hiện việc phân chia theo phương án phân chia tài sản theo quyết định tuyên bố phá sản. Trường hợp cơ quan ủy thác thi hành án (cơ quan A) đã mở tài khoản thì sau khi có thông báo nhận ủy thác, số tiền trong tài khoản (nếu có) được chuyển đến tài khoản mới của cơ quan nhận ủy thác (cơ quan B) để xử lý theo quy định; tài khoản mà cơ quan ủy thác (cơ quan A) đã mở trước đó cần được xem xét, hủy bỏ. Trường hợp ủy thác một phần quyết định thi hành án thì cơ quan nhận ủy thác (cơ quan B) ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành vụ việc theo quy định. Khi thu được tiền, tài sản, cơ quan thi hành án nhận ủy thác phải gửi ngay vào tài khoản tạm giữ của cơ quan mình. Sau khi đã thi hành xong các khoản có điều kiện theo quyết định ủy thác, cơ quan nhận ủy thác thực hiện chuyển số tiền thu được vào tài khoản của cơ quan thi hành án đã ủy thác (cơ quan A) để thực hiện phương án phân chia tài sản theo quyết định tuyên bố phá sản. Trách nhiệm của cơ quan thi hành án nhận ủy thác (cơ quan B) hoàn thành sau khi kết thúc việc thi hành án đối với nội dung được ủy thác và chuyển tiền cho cơ quan đã ủy thác (cơ quan A).
          Ba là, Về kinh phí thi hành quyết định phá sản và hạch toán kế toán các khoản phải thi hành án
          Theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung, thì việc thi hành quyết định của Tòa án giải quyết phá sản thuộc diện chủ động thi hành án, nên kinh phí đảm bảo cho việc thi hành quyết định của Tòa án về phá sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự đối với quyết định chủ động thi hành, nên ngân sách nhà nước đảm bảo hoạt động tổ chức thi hành án, các cơ quan Thi hành án dân sự căn cứ vào tình hình thực tế và dự toán được giao để thực hiện theo quy định của pháp luật.
          Theo Thông tư số 91/2010/TT-BTC ngày 17/6/2010 của Bộ Tài chính về hướng dẫn chế độ kế toán nghiệp vụ thi hành án dân sự, căn cứ hạch toán số phải thu của người phải thi hành án là Quyết định thi hành án và các chứng từ liên quan đến nộp tiền, tài sản thi hành án. Cơ quan Thi hành án dân sự hạch toán chi tiết các khoản phải thu của người phải thi hành án phải mở sổ tờ rời theo dõi chi tiết từng vụ án và cho từng đối tượng phải thi hành án từ khi có Quyết định thi hành án đến khi hồ sơ việc thi hành án kết thúc. Các nghiệp vụ phát sinh về phá sản đơn vị hạch toán vào TK 316, 335, 512,… có liên quan của các nghiệp vụ phát sinh theo quy định.
          Bốn là, Về thống kê thi hành án và ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án
          Việc thực hiện thống kê thi hành án đối với Quyết định thi hành quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án thực hiện theo các biểu mẫu chủ động thi hành án. Tại Biểu 05/TK-THA, trường hợp chủ nợ (người được thi hành án) là cơ quan, tổ chức thì thống kê vào cột 9, chủ nợ (người được thi hành án) là cá nhân thì thống kê vào cột 10. Việc thống kê trong trường hợp ủy thác thi hành án phá sản được tính như các việc thi hành án được ủy thác khác. Đối với kết quả thi hành về tiền, cơ quan Thi hành án dân sự nhận ủy thác được tính giải quyết xong, nhưng phải ghi chú đã chuyển tiền thu được cho cơ quan THADS đã ủy thác. Việc ra quyết định chưa có điều kiện thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 44a Luật Thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung và Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, theo đó, việc ra quyết định chưa có điều kiện được áp dụng đối với từng trường hợp phải thi hành án.
 
                                                                                                                       Công Hoàng

Các tin khác
Các tin đã đưa ngày: