Sign In

Tuyên truyền kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống Thi hành án dân sự (19/7/1946 - 19/7/2016)

28/03/2016

ĐỀ CƯƠNG
Tuyên truyền kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống Thi hành án dân sự (19/7/1946 - 19/7/2016)
(Kèm theo Quyết định số 373/QĐ-BTP ngày  08  tháng  3  năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp)
 
Phần 1
70 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH CỦA CÁC CƠ QUAN
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ (1946 -2016)
Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, công tác thi hành án dân sự được Chính quyền cách mạng đặc biệt quan tâm, các cơ quan Thi hành án dân sự đã từng bước khẳng định vị trí và vai trò ngày càng quan trọng trong hệ thống chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong 70 năm xây dựng và trưởng thành, với biết bao thăng trầm và biến động, các cơ quan Thi hành án dân sự đã từng bước vượt qua những khó khăn, có những đóng góp quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển các cơ quan Thi hành án dân sự, có thể chia ra làm hai giai đoạn với những dấu mốc quan trọng sau:
        I. GIAI ĐOẠN TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐẾN TRƯỚC NĂM 1993
1. Giai đoạn từ 1946 đến 1980
Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, để khẳng định sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với công tác xét xử và thi hành án dân sự, ngày 24/01/1946, năm tháng sau ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 13/SL, quy định về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán, trong đó, khoản 3, Điều 3 của Sắc lệnh quy định: Ban Tư pháp xã có quyền “Thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp trên”. Đây chính là văn bản pháp lý đầu tiên đánh dấu sự ra đời về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Thi hành án dân sự trong chế độ mới; tiếp đó ngày 19/7/1946 Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 130/SL quy định về thể thức thi hành mệnh lệnh hoặc bản án của Tòa án. Có thể nói, đây là văn bản của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định riêng về công tác thi hành án, thẩm quyền và thể thức thi hành bản án.
Theo quy định tại các văn bản trên, từ năm 1946 đến năm 1950 hoạt động thi hành án dân sự đã trở thành một lĩnh vực công tác của ngành Tư pháp, do Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã - một đơn vị, tổ chức của chính quyền cách mạng, gắn liền với Toà án và hoạt động xét xử thực hiện. Việc thi hành án dân sự thể hiện quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế. Thời kỳ này, mặc dù cơ cấu tổ chức còn rất đơn giản, số lượng cán bộ ít và nghiệp vụ còn nhiều hạn chế, song Ban Tư pháp xã và Thừa phát lại đã có nhiều cố gắng trong việc thi hành những bản án, mệnh lệnh của Thẩm phán, góp phần bảo đảm pháp chế của Nhà nước Cách mạng Việt Nam, đặt nền móng cho công tác thi hành án dân sự sau này.
Từ năm 1950 đến năm 1960, công tác thi hành án dân sự có một sự thay đổi lớn về cơ chế quản lý và tổ chức hoạt động, với việc ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về “cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng”. Điều 19 của Sắc lệnh này quy định: “Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ, mà chính Tòa án huyện hay Tòa án trên đã tuyên”. Theo quy định này, việc thi hành án dân sự do Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã thực hiện trước đây được giao cho Thẩm phán huyện thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Sắc lệnh này đã giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án dân sự cho một cơ quan cấp huyện thay vì cơ quan cấp xã như trước đây, cho thấy vai trò và vị trí của công tác thi hành án dân sự ngày càng được nâng cao. Năm 1960, công tác thi hành án tiếp tục có thêm bước phát triển mới, đó là trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Điều 24 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 đã quy định: “Tại các Toà án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết định hình sự”. Như vậy, thay bằng quy định Thẩm phán vừa thực hiện công tác xét xử, vừa kiêm nhiệm công tác thi hành án dân sự thì theo quy định mới này từ năm 1960, tại các Tòa án nhân dân đã có nhân viên chấp hành án chuyên trách thực hiện nhiệm vụ thi hành dân sự. Ngày 14 tháng 11 năm 1974, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định thành lập Phòng chỉ đạo thi hành án. Trong thời kỳ này, Phòng chỉ đạo thi hành án là một Phòng hoạt động độc lập dưới sự chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, giúp Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nắm tình hình, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc công tác thi hành án của Chấp hành viên tại Tòa án nhân dân các cấp; xây dựng các văn bản chỉ đạo chung về thi hành án.
Như vậy từ năm 1960 đến năm 1980, trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và các sắc lệnh, Luật Tổ chức tòa án nhân dân, ngành Tòa án nhân dân đã quan tâm tới việc xây dựng, phát triển tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự. Trong giai đoạn này, chúng ta phải thực hiện cả nhiệm vụ đấu tranh giữ vững nền độc lập dân tộc và chống giặc ngoại xâm; đồng thời, thực hiện nhiệm vụ tổ chức thi hành án dân sự mà Đảng, Nhà nước đã giao. Các cơ quan của Nhà nước và Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành các văn bản quy định khá cụ thể về nguyên tắc, trình tự, thủ tục về thi hành án dân sự và được áp dụng thống nhất trong cả nước. Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho Chấp hành viên và nhân viên thi hành án về lý luận chính trị và nghiệp vụ, tăng cường phương tiện phục vụ công tác thi hành án cho Chấp hành viên và nhân viên thi hành án. Đồng thời với việc ra đời chức danh Chấp hành viên và sự phát triển đội ngũ Chấp hành viên trong ngành Tòa án nhân dân các cấp, hoạt động của đội ngũ Chấp hành viên đã góp phần bảo đảm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cường và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2. Giai đoạn từ 1981 đến 1993
Ngày 18 tháng 12 năm 1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của thời kỳ hoà bình, đánh dấu một dấu mốc lịch sử quan trọng khi đất nước ta chuyển mình sang một giai đoạn mới: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Hiến pháp năm 1980 đã đưa ra yêu cầu Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (Điều 12). Với tinh thần thượng tôn pháp luật đó, Hiến pháp năm 1980 lần đầu tiên đã ghi nhận thành nguyên tắc hiến định về giá trị thi hành của các bản án, quyết định: Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm túc chấp hành (Điều 137). Đây chính là những cơ sở pháp lý quan trọng giúp các cơ quan Thi hành án dân sự có những chuyển biến quan trọng trong lịch sử phát triển của mình trong giai đoạn 1981-1989.
Tiếp theo, Luật Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng đã đổi tên Hội đồng Chính phủ thành Hội đồng Bộ trưởng. Luật này có quy định danh sách các Bộ, trong đó có Bộ Tư pháp. Cũng ở thời điểm này, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1981 được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 7 năm 1981 đã giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức. Nghị định số 143-HĐBT ngày 22 tháng 11 năm 1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp quy định Bộ Tư pháp có chức năng quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức và trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy chế chấp hành án. Sau khi được tái lập, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ nhiều hơn và có hệ thống tổ chức bộ máy đầy đủ hơn so với Bộ Tư pháp trước đây. Giai đoạn này, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ quản lý Toà án địa phương, trong đó có công tác thi hành án dân sự. Vụ Quản lý Toà án địa phương là cơ quan của Bộ Tư pháp giúp Bộ trưởng quản lý về mặt tổ chức (cơ cấu, biên chế, nhân sự) và ngân sách các toà án địa phương. Ngày 01 tháng 01 năm 1982, Toà án nhân dân tối cao đã bàn giao nhiệm vụ này sang Bộ Tư pháp.
Theo quy định tại Thông tư số 08-TT ngày 06 tháng 01 năm 1982 hướng dẫn thực hiện Nghị định 143-HĐBT ngày 22 tháng 11 năm 1981 của Hội đồng Bộ trưởng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của các cơ quan thuộc hệ thống tư pháp, trong cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp có Phòng quản lý Toà án tham mưu cho Sở Tư pháp quản lý về mặt tổ chức các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã; phối hợp chặt chẽ với Toà án nhân dân cấp tỉnh trong công tác này; quản lý công tác tư pháp khác tại địa phương bao gồm cả công tác chấp hành án. Đối với Ban Tư pháp huyện có nhiệm vụ: Chấp hành các án dân sự và hôn nhân gia đình do Toà án huyện xét xử hoặc Toà án tỉnh ủy nhiệm. Đối với Ban Tư pháp xã có nhiệm vụ: Tham gia đôn đốc việc thi hành các bản án dân sự và hôn nhân gia đình thuộc phạm vi xã do Toà án huyện và Ban Tư pháp huyện chuyển về.
Ngày 18 tháng 7 năm 1982, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân Tối cao đã ký Thông tư liên ngành số 472 về công tác quản lý thi hành án trong thời kỳ trước mắt, trong đó quy định: Tại các Toà án nhân dân cấp tỉnh có Phòng Thi hành án nằm trong cơ cấu bộ máy và biên chế của Toà án để giúp Chánh án chỉ đạo công tác thi hành án; tại các Toà án cấp huyện có Chấp hành viên hoặc cán bộ làm công tác thi hành án dưới sự chỉ đạo của Chánh án.
Ngày 28 tháng 8 năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự đầu tiên được ban hành, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, Quy chế Chấp hành viên đã được ban hành kèm theo Nghị định số 68/HĐBT ngày 06 tháng 3 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 và Quy chế Chấp hành viên thì chỉ có Chấp hành viên là người được nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án (trước đây việc thi hành án ngoài Chấp hành viên còn có thể do cán bộ thi hành án thực hiện). Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định số lượng biên chế Chấp hành viên, cán bộ thi hành án cho từng Tòa án địa phương. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân địa phương. Chấp hành viên được bổ nhiệm ở các Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện.
Với việc ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, cơ chế thi hành án đã có bước thay đổi căn bản. Theo Pháp lệnh này, cơ chế kết hợp quyền tự định đoạt của đương sự với sự chủ động của Cơ quan thi hành án và Chấp hành viên đã tạo ra sự phát triển mới trong công tác thi hành án dân sự. Quyền tự định đoạt của đương sự, một trong những nguyên tắc đặc trưng của tố tụng dân sự, trước đây mới chỉ được áp dụng trong giai đoạn xét xử, thì nay đã được vận dụng trong giai đoạn thi hành án dân sự. Thi hành án dân sự là một giai đoạn độc lập tiếp theo giai đoạn xét xử, trong giai đoạn này người được thi hành vẫn có quyền tự định đoạt quyền lợi của mình, có quyền yêu cầu người phải thi hành án thi hành những phán quyết của Tòa án, nhưng cũng có quyền tự hòa giải, thỏa thuận với người phải thi hành án về phương thức thi hành, thậm chí không yêu cầu người phải thi hành án thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án. Quyền tự định đoạt của đương sự đã trở thành một nguyên tắc quan trọng trong công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 vẫn có những quy định về quyền chủ động thi hành của cơ quan thi hành án trong những trường hợp nhất định nhằm bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật của Nhà nước ta nói chung và lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng, tạo cơ sở pháp lý cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án trong giai đoạn này.   
Cùng với sự đổi mới của cơ chế thi hành án, đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án cũng không ngừng được củng cố và tăng cường. Từ chỗ Thẩm phán vừa làm nhiệm vụ xét xử, vừa tổ chức thực hiện nhiệm vụ thi hành án, đội ngũ cán bộ thi hành án đã được chuyên môn hóa, có chức danh, tiêu chuẩn riêng và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc thực hiện các phán quyết của Tòa án.
Trong bối cảnh cơ chế thi hành án đã từng bước được hoàn thiện, đội ngũ cán bộ làm công tác này được củng cố, tăng cường một bước, nhưng sự chỉ đạo điều hành công tác thi hành án vẫn chưa được thay đổi phù hợp. Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên thuộc Tòa án, do Tòa án trực tiếp chỉ đạo về nghiệp vụ và chịu trách nhiệm báo cáo cấp trên về kết quả của hoạt động thi hành án. Bên cạnh đó, công tác phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao trong công tác quản lý Toà án địa phương diễn ra thuận lợi trong thời gian đầu nhưng từ năm 1989 đã xuất hiện những ý kiến khác nhau về trách nhiệm quản lý Toà án địa phương. Những ý kiến khác nhau đó bắt nguồn từ nhu cầu khách quan tìm ra những luận cứ khoa học và giải pháp về quản lý để giải quyết những vướng mắc trên thực tế. Vấn đề đặt ra là cần phải tập trung vào một đầu mối để xác định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý công tác thi hành án sao cho phù hợp với vai trò của Chính phủ trong việc thống nhất quản lý nhà nước về thi hành án dân sự. Đây là một vấn đề mới vào thời điểm đó nên những khó khăn, vướng mắc trong công tác phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao là điều dễ hiểu.
Nhìn chung, trong giai đoạn này, tổ chức và hoạt động thi hành án vẫn còn là một quy trình khép kín trong tòa án và phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Chánh án tòa án nhân dân địa phương. Vai trò của Tòa án nhân dân tối cao (và sau này là Bộ Tư pháp trong những năm 1981-1992) trong việc quản lý tòa án địa phương mới dừng lại ở vai trò quản lý chung, còn thực chất việc quản lý đội ngũ cán bộ tòa án cũng như việc xây dựng, đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động xét xử, thi hành án chủ yếu do chính quyền địa phương đảm nhiệm. Trong nhiều năm, do trọng tâm của Tòa án là xét xử nên trong một thời gian dài tổ chức và hoạt động thi hành án chưa được quan tâm đầy đủ. Với những khó khăn, bất cập như vậy, công tác thi hành án dân sự đứng trước một nhu cầu tất yếu là phải đổi mới một cách căn bản cả về tổ chức lẫn thể chế để đáp ứng nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới.
 

Các tin đã đưa ngày: