Cách mạng công nghiệp 4.0 là kỷ nguyên công nghiệp lớn lần thứ tư kể từ cuộc cách mạng công nghiệp lần đầu tiên từ thế kỷ XVIII, trong lịch sử, con người đã chứng kiến 3 cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lớn: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (từ 1784) diễn ra khi loài người phát minh động cơ hơi nước, tác động trực tiếp đến các ngành nghề như dệt may, chế tạo cơ khí, giao thông vận tải; động cơ hơi nước được đưa vào ôtô, tàu hỏa, tàu thủy, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai (từ 1870) đến khi loài người phát minh ra động cơ điện, mang lại cuộc sống văn minh, năng suất tăng nhiều lần so với động cơ hơi nước. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba (từ 1969) xuất hiện khi con người phát minh ra bóng bán dẫn, điện tử, kết nối thế giới liên lạc được với nhau. Vệ tinh, máy bay, máy tính, điện thoại, Internet… là những công nghệ hiện nay chúng ta thụ hưởng là từ cuộc cách mạng này.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra từ những năm 2000 gọi là cuộc cách mạng số, thông qua các công nghệ như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo (AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)... để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể được mô tả như là sự ra đời của một loạt các công nghệ mới, kết hợp tất cả các kiến thức trong lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số, sinh học, và ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực, nền kinh tế, các ngành kinh tế và ngành công nghiệp. Cuộc cách mạng này đang nổi lên những đột phá công nghệ trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, robot, Internet vạn vật, xe tự lái, công nghệ in 3D, và công nghệ nano.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đất nước ta. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị, trước đó Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị về nâng cao năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư[1] và phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ[2].
Trên cơ sở đó, các bộ, ngành và địa phương đã xây dựng và triển khai thực hiện một số chính sách nhằm thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông. Cơ sở hạ tầng viễn thông được xây dựng khá đồng bộ. Kinh tế số được hình thành, phát triển nhanh, ngày càng trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế; công nghệ số được áp dụng trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; xuất hiện ngày càng nhiều hình thức kinh doanh, dịch vụ mới, xuyên quốc gia, dựa trên nền tảng công nghệ số và Internet đang tạo nhiều cơ hội việc làm, thu nhập, tiện ích, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Việc xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số được triển khai quyết liệt, bước đầu đạt được nhiều kết quả tích cực.
Trong Nghị quyết 52-NQ/TW, Bộ Chính trị đưa ra một số quan điểm chỉ đạo, trong đó nêu rõ, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 yêu cầu phải đổi mới tư duy về quản lý kinh tế, quản lý xã hội; xây dựng, hoàn thiện thể chế cho phù hợp. Đồng thời, phát huy tối đa các nguồn lực, bảo đảm đủ nguồn lực cho việc chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Xác định nguồn lực bên trong là quyết định, chiến lược, cơ bản lâu dài; nguồn lực bên ngoài là quan trọng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của toàn xã hội. Nghị quyết cũng đưa ra mục tiêu tổng quát là tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc cách mạng lần thứ 4 đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại hóa đất nước. Cùng với đó, phát triển mạnh mẽ kinh tế số; phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái.
Thi hành bản án, quyết định dân sự là khâu cuối của quá trình tố tụng, nhằm hiện thực hóa những phán quyết của Tòa án vào thực tiễn cuộc sống; có vị trí, ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thực thi công lý, xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương và ổn định. Hoạt động thi hành án dân sự (THADS) không những góp phần trực tiếp, tích cực vào việc bảo vệ những quyền con người, quyền công dân mà còn góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng địa phương; cụ thể như góp phần tháo gỡ khó khăn, khơi thông, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh thông qua hoạt động thu hồi nợ, giảm nợ xấu và mở rộng tín dụng, bảo vệ quyền chủ nợ và thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng hay nâng cao an sinh xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động thông qua việc xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
Hệ thống THADS hiện nay được tổ chức theo Ngành dọc từ Trung ương đến địa phương (ở Trung ương có Tổng cục THADS với 8 đơn vị trực thuộc), ở cấp tỉnh có 63 Cục THADS, cấp huyện có 710 Chi cục THADS. Tổng số công chức, viên chức, người lao động toàn Hệ thống THADS hiện nay là gần 10 nghìn người. Trong bối cảnh lượng án phải thi hành không ngừng tăng cao, năm sau cao hơn năm trước, tính chất, mức độ ngày càng phức tạp, biên chế không tăng mà còn tinh giản theo chủ trương chung thì bên cạnh các giải pháp về chỉ đạo điều hành, chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức cán bộ, kinh phí, tài chính… thì giải pháp tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động THADS đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
Thực hiện chủ trương của Đảng[3], chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ[4] về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước, thời gian qua, Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS, các cơ quan THADS đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp, biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS. Một số kết quả về ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS đã đạt được thời gian qua, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chủ trương, đường lối, định hướng, kế hoạch
Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Lãnh đạo Tổng cục THADS đã ban hành nhiều kế hoạch, đề án về ứng dụng công nghệ thông tin trong Hệ thống THADS, trong đó xác định rõ mục đích, yêu cầu, các nhiệm vụ cụ thể, có lộ trình, giải pháp cho cả giai đoạn (từ 2015 đến 2020) và đối với từng năm cụ thể (như: Quyết định số 3416/QĐ-BTP ngày 22/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc phê duyệt Đề án Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan THADS giai đoạn 2015-2020; Quyết định số 1700/QĐ-BTP ngày 24/9/2015 ban hành Kế hoạch tổng thể triển khai thực hiện Đề án Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan THADS giai đoạn 2015-2020; Quyết định số 1701/QĐ-BTP ngày 24/9/2015 ban hành Kế hoạch giai đoạn 2015-2016 triển khai thực hiện Đề án ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan THADS giai đoạn 2015-2020; Quyết định số 1396/QĐ-TCTHADS ngày 30/12/2016 về phê duyệt kế hoạch triển khai các nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS năm 2017, Quyết định số 465/QĐ-TCTHADS ngày 20/3/2018 ban hành kế hoạch triển khai các nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS năm 2018, Quyết định số 509/QĐ-TCTHADS ngày 03/5/2019 về phê duyệt kế hoạch triển khai các nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS năm 2019, Quyết định số 248/QĐ-TCTHADS ngày 20/3/2020 về phê duyệt kế hoạch triển khai các nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS năm 2020…), đồng thời chỉ đạo triển khai thực hiện từ Tổng cục đến các Cục, Chi cục THADS.
Thứ hai, về hạ tầng kỹ thuật
Ở Trung ương: 100% công chức, viên chức của Tổng cục được trang bị mỗi người 01 máy tính kết nối mạng nội bộ (LAN) và mạng internet, các phòng làm việc được trang bị một số thiết bị khác phục vụ công tác như máy in, máy fax, máy scan, máy photocopy, điện thoại... Hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin tại Tổng cục chủ yếu do Cục Công nghệ thông tin, Bộ Tư pháp bảo đảm (hệ thống máy chủ, đường truyền, lưu trữ, an ninh, an toàn thông tin…).
Tại các cơ quan THADS địa phương: Công chức, người lao động được trang bị tương đối đầy đủ các trang thiết bị tin học phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ, đạt yêu cầu 01 máy tính/01người; các Cục THADS và Chi cục THADS đã thiết lập hệ thống mạng nội bộ (LAN), kết nối mạng Internet.
Hàng năm, Tổng cục đều chỉ đạo các đơn vị thuộc Tổng cục, các Cục THADS rà soát, trang cấp máy tính và thiết bị tin học cho công chức, viên chức, người lao động trong Hệ thống.
Thứ ba, về nhân lực công nghệ thông tin
Hiện nay ở Tổng cục có Trung tâm Thống kê, Quản lý dữ liệu và Ứng dụng công nghệ thông tin là đơn vị trực thuộc tham mưu trong công tác phối hợp nghiên cứu và triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin của toàn Hệ thống, Trung tâm có 03 đồng chí có trình độ cử nhân công nghệ thông tin (01 đồng chí được phân công phụ trách công tác thống kê THADS). Ở các cơ quan THADS hiện nay được phân bổ 01 biên chế chuyên trách công nghệ thông tin/Cục THADS, các Chi cục THADS chưa có biên chế chuyên trách về công nghệ thông tin.
Thứ tư, về một số ứng dụng nội bộ đã xây dựng triển khai
Phần mềm quản lý quá trình thụ lý, tổ chức thi hành án và báo cáo thống kê THADS được triển khai trong Hệ thống các cơ quan THADS. Tổng số tài khoản người dùng trên hệ thống là trên 7.000 tài khoản; tổng số hồ sơ thi hành án đã có trên hệ thống là hơn 1.650.000 hồ sơ[5].
Một số phần mềm nội bộ đã được đưa vào khai thác sử dụng trong Hệ thống như: phần mềm Kế toán nghiệp vụ THADS và Kế toán Hành chính sự nghiệp THADS; phần mềm Lưu trữ dùng chung; hệ thống quản lý văn bản điều hành (kết nối với trục liên thông văn bản quốc gia).
Đang triển khai thử nghiệm phần mềm cơ sở dữ liệu điện tử thông tin người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án; phối hợp xây dựng phần mềm quản lý cán bộ THADS.
100% công chức, viên chức, người lao động thuộc Tổng cục, các cơ quan THADS địa phương đều được cấp hộp thư điện tử công vụ phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ (khoảng hơn 9.000 tài khoản), dung lượng cao nhất lên đến 5GB/tài khoản.
Đầu tư mua sắm, lắp đặt và đưa vào sử dụng hệ thống giao ban trực tuyến với 64 điểm cầu (tại Tổng cục và 63 Cục THADS) phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo điều hành nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm.
Đầu tư và đưa vào sử dụng hệ thống tổng đài nhắn tin SMS. Triển khai cấp chữ ký số cho Lãnh đạo Tổng cục, Lãnh đạo các đơn vị thuộc Tổng cục, các Cục và một số Trưởng phòng chuyên môn của Cục THADS, một số Chi cục THADS.
Thứ năm, về một số ứng dụng phục vụ người dân doanh nghiệp
Nâng cấp, phát triển Trang thông tin điện tử THADS thành Cổng thông tin điện tử THADS. Xây dựng, triển khai Trang thông tin điện tử cho 63 Cục THADS địa phương.
Triển khai cơ chế một cửa tại các cơ quan THADS địa phương. Đã triển khai thí điểm phần mềm Hỗ trợ trực tuyến THADS.
Thực hiện đăng tải công khai danh sách người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành và thông tin về việc không chấp hành án hành chính, quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 trên Cổng/Trang Thông tin điện tử THADS theo quy định.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS cũng còn gặp một số khó khăn, hạn chế, cụ thể: (i) nguồn lực đầu tư cho công nghệ thông tin còn hạn chế; (ii) việc đầu tư hạ tầng kỹ thuật trong toàn hệ thống THADS chưa được thực hiện đồng bộ; công tác đảm bảo an toàn an ninh thông tin ở các cơ quan THADS địa phương chưa được chú trọng; (iii) việc xây dựng triển khai một số phần mềm, ứng dụng công nghệ thông tin mặc dù đã được thực hiện nhưng còn chậm so với yêu cầu; (iv) chưa có nhiều chính sách khuyến khích, đãi ngộ nên chưa thu hút được nguồn nhân lực công nghệ thông tin có trình độ cao làm việc tại các cơ quan THADS.
Có thể thấy rằng việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác THADS thời gian qua bước đầu đã có những chuyển biến nhất định, đạt được một số kết quả trên nhiều mặt (hạ tầng, phần mềm, cơ sở dữ liệu, nhân lực, đào tạo, bồi dưỡng…). Tuy nhiên, so với yêu cầu công tác THADS hiện nay thì việc ứng dụng công nghệ thông tin cần tiếp tục được quan tâm đẩy mạnh thực hiện trong thời gian tới; tăng cường các nguồn lực, tích cực phối hợp với các đơn vị có liên quan trong xây dựng, triển khai hiệu quả các hạng mục, dự án công nghệ thông tin.
Trong bối cảnh hội nhập, sự bùng nổ và tham gia vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác THADS cần bám sát quan điểm và một số mục tiêu, cụ thể như sau:
Một là, về quan điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin
Chủ động, tích cực tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng; nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nội hàm, bản chất của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để quyết tâm đổi mới tư duy và hành động, coi đó là giải pháp đột phá với bước đi và lộ trình phù hợp.
Nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội để nâng cao năng suất lao động, hiệu lực, hiệu quả quản lý thông qua nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu tiên tiến của cuộc cách mạng vào công tác của ngành, lĩnh vực.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế cho phù hợp. Cần có cách tiếp cận mở, sáng tạo, cho thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra, tạo mọi thuận lợi cho đổi mới sáng tạo.
Phát huy tối đa các nguồn lực, bảo đảm đủ nguồn lực cho việc chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Hai là, về mục tiêu ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS thời gian tới
Cần tiếp tục đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cường vai trò lãnh đạo trong đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin của các cơ quan THADS.
Xây dựng hoàn thiện, thể chế về THADS; hoàn thiện thể chế, quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS. Xây dựng Đề án/Chương trình, mục tiêu ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS giai đoạn 2021-2025 và các năm tiếp theo. Hàng năm ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch cụ thể về ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS. Xây dựng và ban hành các quy chế, quy trình quy định, hướng dẫn về ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống THADS.
Hiện đại hóa hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu. Tiếp tục đầu tư, nâng cấp, phát triển hạ tầng kỹ thuật; rà soát, trang cấp máy vi tính và các trang thiết bị tin học cho công chức, người lao động của Hệ thống, nâng cấp băng thông, đường truyền mạng... đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và đặc thù công việc.
Xây dựng và phát triển các phần mềm ứng dụng, cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và chuyên môn nghiệp vụ: Nâng cấp, phát triển phần mềm Quản lý quá trình thụ lý, tổ chức thi hành án và báo cáo thống kê THADS; triển khai khai thác, sử dụng hiệu quả các phần mềm quản lý cán bộ THADS, phần mềm cơ sở dữ liệu điện tử về thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án, hệ thống quản lý văn bản điều hành, các phần mềm về tài chính kế toán trong THADS, phần mềm lưu trữ... Tiếp tục nghiên cứu xây dựng và triển khai một số phần mềm, ứng dụng nội bộ về các lĩnh vực như giải quyết khiếu nại tố cáo, thi đua khen thưởng, phần mềm quản lý kho vật chứng... Xây dựng và hoàn thiện các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu điện tử chuyên ngành tạo nền tảng xây dựng Chính phủ điện tử, gắn liền với quá trình cải cách hành chính.
Tăng cường sử dụng hệ thống Hội nghị giao ban trực tuyến, đầu tư và vận hành hệ thống giao ban đến các đơn vị cấp Chi cục THADS đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả. Tăng cường sử dụng văn bản điện tử thay thế cho các văn bản giấy trong quản lý, chỉ đạo, điều hành; khai thác, sử dụng triệt để hộp thư điện tử công vụ, tăng cường sử dụng chữ ký số...
Nâng cấp và tổ chức quản lý, vận hành tốt Cổng Thông tin điện tử và các Trang Thông tin điện tử THADS. Tăng cường cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3, tiến tới cấp độ 4 đối với số thủ tục; tăng cường hỗ trợ trực tuyến THADS đối với người dân, doanh nghiệp trong thực hiện các thủ tục về THADS.
Ưu tiên, bố trí kinh phí đầu tư phát triển công nghệ thông tin trong Hệ thống THADS. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ công chức các cơ quan THADS về ứng dụng công nghệ thông tin. Bồi dưỡng nâng cao chuyên môn cho đội ngũ làm công tác công nghệ thông tin của các cơ quan THADS.
Để thực hiện các mục tiêu nêu trên, cần xây dựng nhiều giải pháp triển khai thực hiện, trong đó tập trung một số giải pháp sau:
Trước hết, cần tiếp tục đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cường vai trò lãnh đạo trong đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
Nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền về sự cấp thiết phải chủ động tham gia tích cực và có hiệu quả cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển ngành, lĩnh vực.
Phát huy vai trò của Thủ trưởng các đơn vị cơ quan THADS trong việc quản lý, chỉ đạo, điều hành đơn vị và các đơn vị cấp dưới trực thuộc trong đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động điều hành và chuyên môn nghiệp vụ.
Phát huy sự tham gia có hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội.
Hai là, hoàn thiện thể chế, quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS
Xây dựng, ban hành các văn bản, đề án triển khai thực hiện các nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS phù hợp với các chủ trương, chính sách về ứng dụng công nghệ thông tin của Đảng, Chính phủ trong bối cảnh tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Xây dựng Đề án/Chương trình, mục tiêu ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS giai đoạn 2021-2025 và các năm tiếp theo.
Hàng năm ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch cụ thể về ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS.
Xây dựng và ban hành các quy chế, quy trình, quy định, hướng dẫn về ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống THADS. Hoàn thiện các tài liệu hướng dẫn sử dụng các phần mềm, các chính sách về dữ liệu, quản trị dữ liệu, tạo thuận lợi cho việc tạo dựng, kết nối, chia sẻ và khai thác dữ liệu bảo đảm an toàn, an ninh mạng.
Ba là, tiếp tục quan tâm hiện đại hóa hạ tầng kỹ thuật, xây dựng và phát triển các phần mềm, ứng dụng
Để thực hiện hiệu quả công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS thì các điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin phải được chú trọng đồng bộ. Trong đó cần quan tâm về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, chú trọng hệ thống máy máy chủ, máy trạm, đường truyền kết nối, lưu trữ, thiết bị an ninh, bảo mật …Hàng năm tiếp tục thực hiện việc rà soát, trang cấp máy vi tính và các trang thiết bị tin học cho công chức, người lao động của Hệ thống, nâng cấp băng thông, đường truyền mạng... đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và đặc thù công việc. Các giải pháp kỹ thuật đưa ra phải phù hợp và phát huy được hạ tầng kỹ thuật hiện có, bắt kịp xu thế công nghệ hiện đại.
Xây dựng và phát triển các phần mềm ứng dụng, cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và chuyên môn nghiệp vụ, trong đó:
Nâng cấp, phát triển phần mềm Quản lý quá trình thụ lý, tổ chức thi hành án và báo cáo thống kê THADS; triển khai khai thác, sử dụng hiệu quả các phần mềm quản lý cán bộ THADS, phần mềm cơ sở dữ liệu điện tử về thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án, hệ thống quản lý văn bản điều hành, các phần mềm về tài chính kế toán trong THADS, phần mềm lưu trữ... Lưu ý khi triển khai các phần mềm cần có giải pháp cho khả năng kết nối, chia sẻ dữ liệu với các phần mềm, cơ sở dữ liệu liên quan như phần mềm của Tòa án nhân dân các cấp, các cơ quan thi hành án hình sự; kết nối, cung cấp, tích hợp, chia sẻ thông tin với cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Tiếp tục nghiên cứu xây dựng và triển khai một số phần mềm, ứng dụng nội bộ về các lĩnh vực như giải quyết khiếu nại tố cáo, thi đua khen thưởng, phần mềm quản lý kho vật chứng...
Xây dựng và hoàn thiện các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu điện tử chuyên ngành tạo nền tảng xây dựng Chính phủ điện tử, gắn liền với quá trình cải cách hành chính.
Bốn là, cần có các chính sách phát triển nguồn nhân lực
Bảo đảm nhân lực phù hợp với nền tảng công nghệ thông tin đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Bổ sung cán bộ ứng dụng công nghệ thông tin tại Tổng cục và bố trí đủ cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin tại các Cục THADS các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin của Hệ thống THADS.
Xây dựng chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao về công nghệ thông tin về làm việc tại Tổng cục và các cơ quan THADS; ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ kinh phí cho cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin trong hệ thống THADS.
Hằng năm, tổ chức các lớp bồi dưỡng các kỹ năng về công nghệ thông tin cho đội ngũ công chức, viên chức trong toàn Hệ thống THADS (lồng ghép nội dung trong các đợt tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các công chức của các cơ quan THADS). Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho đội ngũ phụ trách công nghệ thông tin của Tổng cục và các Cục THADS, mỗi năm tối thiểu 01 lớp.
Năm là, cần tiếp tục có các chính sách hội nhập quốc tế
Đẩy mạnh việc khảo sát, học tập kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý nhà nước của một số Bộ, ngành trong và ngoài nước thông qua các hình thức như: Khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm thực tế hoặc cử cán bộ tham dự các hội thảo, tọa đàm về những vấn đề liên quan đến ứng dụng công nghệ thông tin, nhất là ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thực thi pháp luật, thi hành án...
Tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là con đường tất yếu của các quốc gia nếu muốn phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, nhất là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Đối với chúng ta, đây còn là một chủ trương lớn, quan trọng, một định hướng mang tầm chiến lược của Đảng và Nhà nước.
Để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức, để tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi cần có một nguồn lực to lớn, kế hoạch hành động hiệu quả, thiết thực; đồng thời cần có sự quyết tâm cao và nỗ lực của cả hệ thống, sự ủng hộ, hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức liên quan cũng như sự tham gia của toàn xã hội./.
-------------------------------------------------------------------
[1] Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/05/2017
[2] Quyết định số 999/QĐ-TTg ngày 12/8/2019
[3] Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã xác định “Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá".Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI khẳng định hạ tầng thông tin là một trong những hạ tầng thiết yếu, cần ưu tiên đầu tư, để xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Nghị quyết nêu rõ quan điểm của Trung ương Đảng, coi việc thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong lộ trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong từng ngành, từng lĩnh vực.
Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị “về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế”.
[4] Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 15/4/2015 của Chính phủ ban hành “Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế”.
[5]Tính đến ngày 15/4/2020
Theo Cổng TTĐT Tổng cục THADS - BTP