Nghiên cứu, đề xuất ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động THADS từ kinh nghiệm quốc tế

27/10/2023


Công nghệ số đã và đang phát triển một cách nhanh chóng, ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống xã hội, trong đó đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động THADS. Tại một số quốc gia như Nhật Bản, Phần Lan, Thái Lan,… công nghệ số cũng đã được ứng dụng trong THADS, theo đó, khái niệm tài sản kỹ thuật số được đã được làm rõ; đã có những quy định về số hóa các trình tự, thủ tục thi hành án; trách nhiệm của người thực hiện nhiệm vụ thi hành án; các công cụ bảo đảm thi hành án và cách thức xác minh, thi hành đối với loại tài sản này. Từ đó tạo ra sự chuyển giao từ thủ tục thi hành án truyền thống sang thủ tục thi hành án dựa trên công nghệ số. Sự chuyển giao này đã góp phần tạo điều kiện tốt hơn cho các bên có liên quan trong THADS, đảm bảo công bằng, minh bạch, trách nhiệm và thông tin. Việc học hỏi, nghiên cứu kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số từ các quốc gia trên thế giới có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác THADS tại Việt Nam.
1. Kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin tại một số quốc gia
- Tại Thượng Hải, Trung Quốc: để đảm bảo tốt hơn quyền tham gia và quyền được biết trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin, Ccng với việc xây dựng một hệ thống THADS công khai, minh bạch, Thượng Hải cho phép sử dụng mạng xã hội Wechat để kiểm tra quá trình thi hành án, thực hiện đấu giá tài sản trực tuyến trên mạng Taobao...Tất cả các ứng dụng trên đã giúp nâng cao tính liêm chính của hệ thống thi hành án.
- Tại Indonesia: Tham khảo việc triển khai hệ thống tố tụng điện tử của Tòa án tối cao, bao gồm Nộp đơn điện tử, Thanh toán điện tử và Triệu tập điện tử, xét xử điện tử. Việc triển khai các hệ thống quản lý và xét xử điện tử thể hiện sự thành công của Tòa án tối cao trong việc triển khai hệ thống tòa án trực tuyến. Hệ thống này đòi hỏi phải đổi mới thường xuyên trong đó: Giới thiệu hệ thống cư trú điện tử: Cư trú điện tử là nơi cư trú của bất kỳ bên nào dưới dạng một địa chỉ thư điện tử đã được xác minh, là địa chỉ của người nhận lệnh triệu tập, thông báo và bản sao quyết định của tòa án. Nơi cư trú điện tử của nguyên đơn được cấp tại thời điểm đăng ký vụ án, còn đối với bị đơn, nơi cư trú điện tử được cấp vào thời điểm họ tuyên bố đồng ý với một phiên tòa điện tử. Nơi cư trú điện tử về bản chất là ảo nên không liên quan tới phạm vi thẩm quyền xét xử của tòa án. Việc áp dụng nơi cư trú điện tử cho phép Thừa phát lại tòa án có thể triệu tập đương sự đang cư trú ở khu vực ngoài thẩm quyền của họ mà không cần phải ủy quyền cho tòa án địa phương, do đó, tiết kiệm thời gian và tiền bạc. Các quyết định của Tòa án chỉ có giá trị và hiệu lực pháp lý nếu được tuyên trong một phiên tòa công khai. Quyết định được coi là đã được tuyên trong một phiên toàn công khai và có sự tham gia của các đương sự khi bản sao của quyết định có chữ ký điện tử, được chuyển cho các bên thông qua hệ thống thông tin điện tử của tòa án. Nhằm hỗ trợ quyết định điện tử của Tòa án, Tòa án tối cao đã phối hợp với cơ quan mã hóa và mạng quốc gia cấp chữ ký điện tử để việc ký quyết định của tòa án có thể thực hiện bằng điện tử và mỗi bản sao của quyết định có chữ ký điện tử của thư ký đều có giá trị và hiệu lực pháp lý. Cũng tại nước này, Tòa án tối cao đã tối ưu hóa việc sử dụng công nghệ trong quy trình quản lý vụ án như: bắt kịp với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin thông qua việc xây dựng một thư mục điện tử để công bố các quyết định của Tòa án tối cao và cơ quan tư pháp. Ngày nay, công chúng, đương sự, sinh viên, học giả và những người hành nghề pháp lý đã có thể tiếp cận với hàng triệu các quyết định của tòa. Để tạo điều kiện cho các bên tiếp cận quá trình thụ lý vụ án đang diễn ra, Tòa án tối cao đã phát triển ứng dụng CTS (Hệ thống theo dõi vụ việc), theo đó, hiện nay, các bên có thể theo dõi trực tuyến sự tiến triển của vụ án. Để thúc đẩy tiến độ giải quyết các vụ án trong nội bộ Tòa án tối cao, hội đồng thẩm phán áp dụng hệ thống cùng đọc thông qua việc gửi các tài liệu điện tử đến chủ tịch hội đồng thẩm phán tối cao và các thành viên. Việc chuyển các tài liệu điện tử tại Tòa án tối cao được thực hiện thông qua tính năng Hệ thống quản lý tài liệu trong ứng dụng Hệ thống thông tin quản lý vụ án (SIAP). Việc thực hiện chính sách này có tác động tích cực đến hiệu quả xử lý vụ án tại Tòa án tối cao bao gồm giảm thời gian giải quyết vụ án và chuyển hồ sơ vụ án từ các Cơ quan đăng ký sơ cấp đến Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao  
-Tại Thái Lan: Ngoài việc đấu giá công khai thông thường tại phòng đấu giá trung tâm của LED (cán bộ thi hành án được bán) hoặc các văn phòng thi hành pháp luật khác, Cục thực thi pháp luật Thái Lan LED đã phát triển ứng dụng Đấu thầu điện tử thông qua hệ thống “Đấu giá mời thầu điện tử”, trong đó, cho phép những người mua tiềm năng tham gia phiên đấu giá công khai từ một số văn phòng cụ thể gần đó. Ngoài ra, tại Thái Lan từ đầu năm 2020 đã áp dụng Hệ thống nộp hồ sơ điện tử, đây là một phương thức mới về nộp đơn xin thi hành án. Đến tháng 01/2021, Hệ thống này sẽ được áp dụng cho hình thức phong tỏa tài khoản ngân hàng mới trên toàn quốc. Các hồ sơ tịch biên tài sản mới sẽ có thể được nộp bằng phương thức điện tử từ tháng 04/2021 tại văn phòng tự nguyện. Ngoài ra sẽ có các phương thức mới áp dụng công nghệ vào quy trình thi hành phán quyết nhằm giảm áp lực khối lượng công việc., bao gồm đăng ký mua trực tuyến đối với loại hình đấu giá công khai, nộp đơn trực tuyến xin hòa giải hậu phán quyế, thanh toán chi phí tạm ứng qua ứng dụng Internet Banking và thanh toán tiền thu về từ quá trình thi hành án thông qua Hệ thống doanh nghiệp trực tuyến. Ngoài ra, Phòng quản trị nguồn nhân lực cũng lập kế hoạch xem xét lại cơ cấu tổ chức theo khối lượng nhiệm vụ và công việc phù hợp.
- Tại Phần Lan: Gần 90% các vấn đề của việc thi hành án hiện nay được nhận bằng điện tử. Đơn yêu cầu thi hành án có thể được nộp thông qua dịch vụ điện tử của cơ quan quản lý tư pháp (trên trang web), nếu bản án đã được nộp trong sổ đăng ký phán quyết. Các đơn yêu cầu cưỡng chế thi hành các khoản phải thu trực tiếp có thể thu được cũng có thể được gửi qua dịch vụ điện tử sau khi người nộp đơn đăng ký là người nộp đơn trực tuyến. Các chủ nợ (người được thi hành án) cũng có thể nộp trực tuyến yêu cầu thi hành án trực tiếp thông qua cơ sở dữ liệu thực thi nếu Văn phòng Hành chính Quốc gia về thi hành án đã cho phép. Việc cho phép nộp yêu cầu theo cách này có thể được đưa ra trong cả hai trường hợp dân sự và công cộng. Yêu cầu thi hành án thông qua cơ sở dữ liệu thường là phương pháp thiết thực nhất trong các trường hợp công, vì các khoản nợ đó thường có thể được định giá trực tiếp và chủ nợ thường có rất nhiều vấn đề yêu cầu thi hành để gửi cho cơ quan có thẩm quyền.
Nhân viên thi hành án sẽ tìm kiếm, trong phạm vi được bảo đảm trong hoàn cảnh, đối với tài sản thuộc về người đòi nợ để có được khoản thanh toán cho người nộp đơn. Nhân viên cưỡng chế có quyền, bất kể các quy định về bí mật, được cung cấp miễn phí thông tin, tài liệu và tài liệu do các cơ quan có thẩm quyền và bên thứ ba cung cấp nếu họ cần thiết cho việc thi hành trong một vấn đề thực thi nhất định. Hầu hết các thông tin được cung cấp bằng cách của một giao diện điện tử. Thông tin về các khoản nợ và tài khoản ngân hàng của người nợ đang được chuyển đến hệ thống thông tin thực thi trong vòng 24 giờ kể từ khi yêu cầu thông qua hệ thống. Tương tự áp dụng cho các thông tin cơ bản về thu nhập và tài sản của người nợ (người phải thi hành án) do cơ quan thuế cung cấp. Thông tin chi tiết hơn về pháp nhân thuế và các nghĩa vụ tùy theo trường hợp được chuyển đến hệ thống thông tin thực thi dưới hình thức báo cáo tuân thủ của cơ quan thông tin kinh tế tích hợp (Gray Economy Information Unit). Cơ quan này thu thập thông tin về thu nhập và tài sản của khách hàng và cung cấp cho các cơ quan chức năng như cảnh sát, cơ quan hải quan, cơ quan thuế và thực thi. Hiện tại, cơ quan thi hành luật có quyền truy cập riêng vào sổ địa chính, sổ đăng ký xe và sổ đăng ký kinh doanh. Trong tương lai thông tin trong sổ đăng ký cũng sẽ được cung cấp qua giao diện điện tử trực tiếp tới hệ thống thông tin thực thi. Hệ thống thông tin thực thi hiện đang chuyển sang hệ thống dựa trên trình duyệt web và các lệnh của nhân viên thi hành án sẽ được chuyển đến các ngân hàng, đăng ký đất đai, đăng ký xe .v.v.
Hệ thống công nghệ thông tin sẽ thống nhất công việc hàng ngày của nhân viên thi hành án khi sắp xếp người đòi nợ vào thứ tự công việc khác nhau và khi chuyển trả lời các yêu cầu trong một ngày thông qua giao diện điện tử. Trong tương lai, trọng tâm là phát triển báo cáo theo thời gian thực sẽ làm giảm bớt sự phân bổ và theo dõi đóng góp công việc. Hệ thống hồ sơ sẽ được điện tử, trong đó các tài liệu sẽ được dễ dàng tìm thấy sau đó.
- Tại Thụy Điển: Một trong những ưu điểm của Hệ thống thi hành án ở Thụy Điển là quyền truy cập thông tin về tài sản thi hành án và trách nhiệm cung cấp thông tin tài sản thi hành án ở Thụy Điển được quy định tại Bộ luật thi hành án được thực hiện rất hiệu quả.
Sử dụng công nghệ máy tính kết nối để thu thập thông tin tài sản thi hành án của người phải thi hành án từ các cơ quan có thẩm quyền lưu giữ là phương tiện được áp dụng phổ biến ở Thụy Điển. Sổ đăng ký thi hành án sẽ lưu trữ tất cả thông tin người phải thi hành án đã đăng ký ở một máy tính trung tâm được sử dụng bởi cơ quan thi hành án. Sổ đăng ký này chứa các yêu cầu thi hành án cho tư nhân và cho nhà nước. Tất cả các khoản thanh toán và nghĩa vụ được thực hiện liên quan đến người phải thi hành án đều được ghi vào sổ đăng ký. Với sự trợ giúp của số nhận dạng cá nhân hoặc số đăng ký tổ chức của một công ty, những người quan tâm có thể tìm hiểu để biết một cá nhân hoặc công ty có phải là người phải thi hành án hay không, loại nghĩa vụ phải thi hành án của cá nhân hoặc công ty và biện pháp thi hành án mà cơ quan thi hành án áp dụng. Đối với người nộp đơn đề nghị thi hành án với giá trị lớn và nhiều tài liệu gửi kèm, đơn có thể được chuyển trực tiếp qua máy tính từ người nộp đơn đến cơ quan thi hành án. Phán quyết của tòa án và các tài liệu khác được gửi qua email. Các quy định về việc giải quyết các vấn đề về đăng ký có thể được tìm thấy trong luật đăng ký thi hành án của Thụy Điển.
Cơ quan thi hành án phải hành động nhanh chóng nhất có thể để xác minh vụ việc khi người phải thi hành án khiếu nại về các lỗi ở bộ phận đăng ký liên quan đến các khoản phải thi hành của họ. Thông tin liên quan đến tài sản của người phải thi hành án luôn có sẵn ở cơ quan thi hành án nhằm phục vụ mục đích thi hành án thông qua việc tìm kiếm ở những nơi đăng ký công cộng, vì mục đích đó, cơ quan thi hành án có quyền truy cập trực tiếp bằng máy tính. Chấp hành viên, Cơ quan thi hành án có quyền truy cập vào Sổ đăng ký thuế, Sổ đăng ký của các công ty trách nhiệm hữu hạn, Sổ đăng ký thương mại và hiệp hội, Sổ đăng ký phương tiện giao thông, Sổ đăng ký bất động sản,...do các cơ quan Nhà nước khác lưu trữ và quản lý.
- Để thực hiện tốt hơn bản khuyến nghị về THA năm 2003, Uỷ ban châu Âu về hiệu quả của tư pháp đã ban hành một bản hướng dẫn chi tiết. Bản hướng dẫn đã đưa ra các yêu cầu cụ thể khi thu thập thông tin về người phải THA và tài sản của họ với các hướng dẫn về quyền truy cập thông tin của người được THA, quyền truy cập thông tin của cơ quan THA, nhiệm vụ cung cấp thông tin và vấn đề bảo vệ dữ liệu.
Đối với quyền truy cập thông tin của người được THA, bản hướng dẫn yêu cầu: để đảm bảo quyền được hỗ trợ đầy đủ cho các thủ tục tố tụng, người được THA nên được phép truy cập vào các sổ đăng ký công khai để họ có thể xác nhận thông tin cần thiết về người phải THA, như thông tin xác định về người phải THA và nơi ở của anh ta cho mục đích THA và dữ liệu có thể truy cập được thông qua sổ đăng ký công cộng (ví dụ: sổ đăng ký đất đai, sổ đăng ký toà án của các công ty…) tuân theo quyền tự do thông tin và luật bảo vệ dữ liệu của quốc gia thành viên.
Đối với quyền truy cập thông tin của cơ quan THA, bản hướng dẫn yêu cầu: các quốc gia thành viên nên cho phép các cơ quan THA truy cập nhanh chóng và tốt nhất là truy cập một cách trực tiếp thông tin về tài sản của người phải THA. Các quốc gia thành viên được khuyến khích xem xét cung cấp thông tin về tài sản cho cơ quan THA bằng Internet thông qua truy cập bảo mật, nếu có thể. Để ngăn chặn tình trạng tẩu tán tài sản của người phải THA, các quốc gia thành viên được khuyến khích thiết lập một cơ sở dữ liệu truy cập hạn chế đa nguồn duy nhất về tài sản gắn liền của người phải THA (nghĩa là quyền sở hữu đối với phương tiện, quyền bất động sản, các khoản nợ phải trả, khai thuế…). Các quốc gia thành viên nên cung cấp cơ sở dữ liệu với mức độ bảo mật chấp nhận được. Quyền truy cập của các cơ quan THA vào các cơ sở dữ liệu phải chịu sự kiểm soát kỹ lưỡng. Sự hợp tác của các cơ quan khác nhau của nhà nước và tư nhân, tuân thủ luật bảo vệ dữ liệu là điều cần thiết để cho phép truy cập nhanh chóng vào thông tin đa nguồn trên tài sản của người phải THA.
2. Đề xuất ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động THADS tại Việt Nam trong thời gian tới
Tại Việt Nam, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác THADS thực sự còn rất hạn chế, do đó, từ những kinh nghiệm quốc tế, tác giả đề xuất một số ý kiến sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cưỡng vai trò lãnh đạo trong đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin của các cơ quan THADS. Nâng cao nhận hức của các cấp ủy đảng, chính quyền về sự cấp thiết phải chủ động tham gia tích cực và có hiệu quả cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển ngành, lĩnh vực, phát huy vai trò của Thủ trưởng các đơn vị cơ quan THADS trong việc quản lý, chỉ đạo, điều hành đơn vị và các đơn vị cấp dưới trực thuộc trong đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động điều hành và chuyên môn nghiệp vụ.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế pháp luật nhằm triển khai thực hiện các nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS phù hợp với các chủ trương, chính sách về ứng dụng công nghệ thông tin của Đảng, Chính phủ trong bối cảnh tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Thứ ba, tiếp tục quan tâm hiện đại hóa hạ tầng kỹ thuật, xây dựng và phát triển các phần mềm, ứng dụng: Để thực hiện hiệu quả công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS thì các điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin phải được chú trọng đồng bộ. Trong đó cần quan tâm về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, chú trọng hệ thống máy chủ, máy trạm, đường truyền kết nối, lưu trữ, thiết bị an ninh, bảo mật…Hàng năm tiếp tục thực hiện việc rà soát, trang cấp máy vi tính và các trang thiết bị tin học cho công chức, người lao động của Hệ thống, nâng cấp băng thông, đường truyền mạnh….đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và đặc thù công việc. Các giải pháp kỹ thuật đưa ra phải phù hợp và phát huy được hạ tầng kỹ thuật hiện có, bắt kịp xu thế công nghệ hiện đại
Thứ tư, chú trọng xây dựng và phát triển các phần mềm ứng dụng, cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và chuyên môn nghiệp vụ, trong đó:
- Tiếp tục nâng cấp, phát triển phần mềm Quản lý quá trình thụ lý, tổ chức thi hành án và báo cáo thống kê THADS; triển khai, khai thác, sử dụng hiệu quả các phần mềm quản lý cán bộ THADS, phần mềm cơ sở dữ liệu điện tử về thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành, hệ thống quản lý văn bản điều hành, các phần mềm về tài chính kế toán trong THADS, phần mềm lưu trữ…
- Tiến tới xây dựng Hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử quốc gia về THADS tổng thể và xây dựng thành một hệ thống tập trung, thống nhất từ trung ương đến địa phương, trong đó tích hợp toàn bộ hệ thống cơ sở dữ liệu về cơ quan, đơn vị tổ chức thi hành án, quá trình thụ lý, tổ chức thi hành án, báo cáo thống kê công tác THADS,… tạo nền tảng xây dựng Chính phủ điện tử, gắn liền với quá trình cải cách hành chính.
Thứ năm, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số, thanh toán điện tử trong việc thực hiện các trình tự, thủ tục THADS theo hướng:
- Quy định bổ sung hình thức nộp đơn yêu cầu thi hành án, đơn xác nhận kết quả thi hành án và một số thủ tục khác trong công tác THADS từ hình thức nộp trực tiếp tại cơ quan THADS hoặc bằng hình thức gửi bưu điện bằng hình thức nộp theo phương thức điện tử thông qua Hệ thống phần mềm hoặc bằng các hình thức khác như Thư điện tử, các ứng dụng phù hợp.
-  Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử quốc gia về THADS có khả năng tích hợp, kết nối, chia sẻ dữ liệu với các phần mềm, cơ sở dữ liệu liên quan như phần mềm của Tòa án nhân dân các cấp, các cơ quan THA hình sự, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, cơ sở dữ liệu về đất đai, cơ sở điện tử về thuế, về đăng ký doanh nghiệp….; đồng thời, nghiên cứu cơ chế cho phép cơ quan THADS, Chấp hành viên có quyền truy cập thông tin ở một mức độ cho phép nhằm đảm bảo việc xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án một cách nhanh chóng; quyền truy cập của cơ quan THADS  vào các cơ sở dữ liệu liên quan cần có sự phối hợp, kiểm soát kỹ lưỡng của các cơ quan có liên quan.
- Nghiên cứu, triển khai Hệ thống thông tin tài sản bán đấu giá thi hành án tương tự như tại Nhật Bản, theo đó, các thông tin về tài sản được công khai, minh bạch, cụ thể bao gồm: (1) Mô tả về tài sản (mô tải các quyền liên quan đến bất động sản,...); (2) Báo cáo thẩm định tình trạng hiện tại của tài sản (tình hình hiện tại của tài sản); (3) Báo cáo định giá (đánh giá môi trường xung quanh, giá được được và các vấn đề liên quan đến bất động sản). Các số liệu khác liên quan về tài sản nào được bán, giá bao nhiêu, thời gian của phiên đấu thầu đều có thể tra cứu trên hệ thống. Đồng thời, nghiên cứu triển khai hình thức bán đấu giá trực tuyến đối với tài sản THADS.
Thứ sáu, cần xây dựng các chính sách phát triển nguồn nhân lực: đảm bảo nguồn nhân lực phù hợp với nền tảng công nghệ thông tin đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Theo đó, cần có chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao về công nghệ thông tin làm việc tại Tổng cục và các cơ quan THADS; ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ kinh phí cho cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin trong hệ thống THADS; Hàng năm, tổ chức các lớp bồi dưỡng các kỹ năng về công nghệ thông tin cho đội ngũ công chức, viên chức trong toàn Hệ thống./.