Tổng cục Thi hành án dân sự ban hành Quy chế tiếp công dân

28/02/2020
Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008; Luật Tiếp công dân ngày 25 tháng 11 năm 2013; Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiếp công dân; Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30 tháng 10 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp và Quyết định số 266/QĐ-BTP ngày 05 tháng 2 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Quy chế tiếp công dân của Bộ Tư pháp, ngày 10/02/2020, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự (THADS) đã ban hành Quy chế tiếp công dân tại Tổng cục THADS.


Quy chế tiếp công dân đặc biệt trú trọng quy định thời gian, địa điểm tiếp công dân, trách nhiệm của người tiếp công dân và quyền, nghĩa vụ của công dân khi đến Địa điểm tiếp công dân của Bộ Tư pháp để kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác THADS. Các quy định cụ thể:
1. Địa điểm tiếp công dân (Điều 4)
1. Việc tiếp công dân được thực hiện trong giờ hành chính và được thực hiện tại địa điểm tiếp công dân của Bộ Tư pháp, trừ trường hợp cần thiết do Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo Tổng cục quyết định.
2. Địa điểm tiếp công dân phải bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết để công dân đến trình bày, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh được thuận lợi.
3. Nội quy tiếp công dân và lịch tiếp công dân của Tổng cục Thi hành án dân sự phải được niêm yết tại địa điểm tiếp công dân.
2. Lịch tiếp công dân (Điều 5)
Tổng cục Thi hành án dân sự tiếp công dân các ngày trong tuần, trong đó:
1. Tổng cục trưởng định kỳ tiếp công dân vào thứ ba hàng tuần hoặc ủy quyền cho các Phó Tổng cục trưởng tiếp công dân.
Trường hợp ngày tiếp công dân của Tổng cục trưởng trùng vào ngày lễ, tết, ngày tiếp công dân của Lãnh đạo Bộ hoặc vì lý do khách quan không thể trực tiếp tiếp công dân theo lịch đã định thì phải tiếp công dân vào ngày làm việc tiếp theo.
2. Người tiếp công dân thường xuyên tiếp công dân các ngày trong tuần.
3. Người tiếp công dân khi được giao tiếp công dân khi có yêu cầu của Lãnh đạo Tổng cục, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tổng cục.
3. Tiêu chuẩn của người tiếp công dân (Điều 6)
Người tiếp công dân phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn, nắm vững chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, am hiểu thực tế, có khả năng vận động, thuyết phục bảo đảm yêu cầu về sức khỏe, nhiệt tình và có trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao.
4. Trang phục, thái độ của người tiếp công dân (Điều 7)
1. Khi tiếp công dân, người tiếp công dân phải mặc trang phục theo quy định và đeo thẻ công chức.
2. Khi tiếp công dân, người tiếp công dân phải có thái độ đúng mực, tôn trọng công dân, lắng nghe, tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; ghi chép đầy đủ, chính xác nội dung mà công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trình bày.
5. Nhiệm vụ, quyền hạn của người tiếp công dân thường xuyên (Điều 10)
1. Nhiệm vụ của người tiếp công dân thường xuyên:
a) Tiếp nhận nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, ghi vào sổ theo dõi tiếp công dân theo quy định; tham mưu việc điều phối hoạt động tiếp công dân của các đơn vị thuộc Tổng cục tại địa điểm tiếp công dân;
b) Hướng dẫn công dân cử đại diện trình bày trong trường hợp có nhiều người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về cùng một nội dung; hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định.
c) Giải thích, hướng dẫn cho người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, kết luận tố cáo, quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm quyền;
d) Tiếp nhận đơn, các tài liệu kèm theo của công dân hoặc lập biên bản theo mẫu ghi nhận nội dung trình bày của công dân khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự;
đ) Phân loại, chuyển đơn, trình người có thẩm quyền xử lý nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; phối hợp với công chức phụ trách vụ việc thông báo kết quả xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh cho công dân;
e) Thông báo cho Thủ trưởng đơn vị thuộc Tổng cục có công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh thuộc chức năng, nhiệm vụ của đơn vị đó cử công chức tiếp công dân;
g) Giữ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích người tố cáo trừ trường hợp người tố cáo đồng ý công khai; không được tiết lộ những thông tin có hại cho người tố cáo; báo cáo người có thẩm quyền áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố cáo, người thân thích của người tố cáo theo quy định của pháp luật;
h) Tổng hợp, báo cáo các trường hợp công dân đề nghị Tổng cục trưởng tiếp;
i) Báo cáo Tổng cục trưởng để xem xét, giải quyết theo quy định khi có vụ việc khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp;
k) Giúp Tổng cục trưởng theo dõi, thống kê, tổng hợp, báo cáo tình hình tiếp công dân.
2. Quyền hạn của người tiếp công dân thường xuyên:
a) Yêu cầu người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh nêu rõ họ tên, địa chỉ và xuất trình giấy tờ tuỳ thân, giấy ủy quyền (nếu có) theo quy định của pháp luật;
b) Yêu cầu luật sư hoặc trợ giúp viên pháp lý xuất trình thẻ luật sư, thẻ trợ giúp viên pháp lý và giấy ủy quyền khiếu nại trong trường hợp người khiếu nại ủy quyền cho luật sư hoặc trợ giúp viên pháp lý thực hiện việc khiếu nại;
c) Yêu cầu công dân trình bày rõ ràng nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trong trường hợp họ không có đơn; đề nghị công dân viết lại đơn hoặc viết bổ sung vào đơn những nội dung chưa rõ, còn thiếu; yêu cầu công dân cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho việc tiếp nhận, giải quyết vụ việc;
d) Yêu cầu người vi phạm Nội quy tiếp công dân chấm dứt hành vi vi phạm;
đ) Từ chối tiếp những người đến địa điểm tiếp công dân trong các trường hợp quy định tại Điều 8 Quy chế này.
6. Nhiệm vụ, quyền hạn của người tiếp công dân khi được giao (Điều 11)
1. Nhiệm vụ của người tiếp công dân khi được giao:
a) Lắng nghe, giải thích, hướng dẫn, ghi chép đầy đủ nội dung tiếp công dân theo quy định;
b) Đối với công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh có nội dung thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng đơn vị mình thì báo cáo Thủ trưởng đơn vị để xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật;
c) Các nhiệm vụ quy định tại các Điểm b, c, d, đ, g, h, i Khoản 1 Điều 10 Quy chế này;
d) Tổng hợp, báo cáo các trường hợp công dân đến khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh thuộc phạm vi được giao.
2. Quyền hạn của người tiếp công dân khi được giao theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Quy chế này.
Ngoài ra, Quy chế cũng quy định Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo là đầu mối, có trách nhiệm giúp Tổng Cục trưởng tổ chức việc tiếp công dân; quy định về trách nhiệm phối hợp giữa các đơn vị thuộc Tổng cục THADS trong việc tiếp công dân; trách nhiệm thông báo kết quả cho công dân và một số quy định về tiếp nhận và xử lý bước đầu khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; phân loại và chuyển nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đến cơ quan, người có thẩm quyền thụ lý, giải quyết.
Đối với trường hợp công dân đến Địa điểm tiếp công dân của Bộ Tư pháp yêu cầu biết kết quả thì “…công chức phụ trách vụ việc có trách nhiệm phối hợp với người tiếp công dân trả lời hoặc cung cấp văn bản trả lời. Trường hợp, công dân không đến địa điểm tiếp công dân, công chức được giao phụ trách vụ việc có trách nhiệm thông báo kết quả theo quy định pháp luật”(Điều 16).
 Tại Quy chế này cũng đồng thời quy định những trường hợp được từ chối tiếp công dân, đó là (Điều 8):
1. Người trong tình trạng say do dùng chất kích thích, người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi của mình;
2. Người có hành vi đe dọa, xúc phạm cơ quan, tổ chức, đơn vị, người tiếp công dân, người thi hành công vụ hoặc có hành vi khác vi phạm nội quy nơi tiếp công dân;
3. Người khiếu nại, tố cáo về vụ việc đã giải quyết đúng chính sách, pháp luật, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, rà soát, thông báo bằng văn bản và đã được tiếp, giải thích, hướng dẫn nhưng vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo kéo dài;
4. Những trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Hiện nay, công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo luôn được Đảng, Nhà nước, Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Lãnh đạo Tổng cục THADS quan tâm chỉ đạo, quán triệt thực hiện nghiêm túc trong toàn Hệ thống THADS nói chung và Tổng cục THADS nói riêng. Đặc biệt, những năm gần đây, số lượng lượt người đến Địa điểm tiếp công dân của Bộ Tư pháp để khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về thi hành án dân sự ngày càng nhiều (năm 2019 Tổng cục THADS đã tiếp 411 lượt công dân tại Địa điểm tiếp công dân của Bộ Tư pháp; tiếp nhận 37 lượt thông tin phản ánh qua đường dây nóng; phối hợp với Thanh tra Bộ tham gia 09 buổi tiếp công dân của Lãnh đạo Bộ). Do đó, việc ban hành Quy chế tiếp công dân tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho công dân thực hiện quyền tự do, dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, tạo điều kiện để người dân trực tiếp tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước trong công tác thi hành án dân sự, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần tích cực vào việc tăng cường và bảo đảm pháp chế, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Đối với các cơ quan thi hành án dân sự, làm tốt công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng là tạo điều kiện để những người làm công tác thi hành án kiểm tra, đánh giá lại cơ chế chính sách, công tác chỉ đạo điều hành, công tác tổ chức thi hành án, từ đó có biện pháp chấn chỉnh, có những quyết sách đúng đắn, hợp lòng dân hơn. Mặt khác, qua việc tiếp công dân, phần nào người dân cũng nhìn nhận, đánh giá được trình độ năng lực, thái độ phẩm chất đạo đức của người cán bộ công chức làm công tác THADS, qua đó có được thông tin tin cậy để phản ánh với cơ quan có thẩm quyền cũng như để đánh giá, lựa chọn nhân sự trong các kỳ bầu cử (nếu có).
Cũng nhờ hoạt động này mà chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về THADS nói riêng được thực hiện hiệu quả, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được giải quyết nhanh chóng, góp phần xây dựng và tổ chức Hệ thống THADS ngày càng vững mạnh hơn.