Theo đó, những trường hợp sinh con không bị coi là vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, bao gồm:
- Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân (tỉ lệ nhỏ hơn hoặc bằng tỉ lệ chết) theo công bố chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Cặp vợ chồng sinh lần thứ nhất mà sinh ba con trở lên.
- Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh hai con trở lên.
- Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã cho làm con nuôi.
- Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền, đã được hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương xác nhận.
- Cặp vợ chồng đã có con riêng (con đẻ):
+ Sinh một con hoặc hai con, nếu một trong hai người đã có con riêng (con đẻ).
+ Sinh một con hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh, nếu cả hai người đã có con riêng (con đẻ). Quy định này không áp dụng cho trường hợp hai người đã từng có hai con chung trở lên và các con hiện đang còn sống.
- Phụ nữ chưa kết hôn sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh.
- Sinh con thứ ba trở lên trước ngày 19/01/1989 (ngày có hiệu lực thi hành Quyết định số 162-HĐBT, ngày 18/10/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về một số chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình).
- Trường hợp sinh con thứ ba do mang thai ngoài ý muốn, nếu thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá gia đình gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ người mẹ (có xác nhận của bệnh viện cấp huyện và tương đương trở lên).
Các trường hợp không xem xét kết nạp lại và kết nạp vào Đảng bao gồm: Đảng viên sau khi bị đưa ra khỏi Đảng lại vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình và Quần chúng đã vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình trong trường hợp sinh con thứ năm trở lên.
Tiêu chuẩn, điều kiện, thẩm quyền kết nạp lại vào Đảng đối với đảng viên đã bị đưa ra khỏi Đảng do vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình bao gồm:
- Đảng viên bị đưa ra khỏi Đảng do vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình chỉ được xem xét, kết nạp lại vào Đảng khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của Trung ương và yêu cầu thực tế của công tác xây dựng Đảng của địa phương, đơn vị; là người có uy tín trong cơ quan, đơn vị, cộng đồng dân cư, được cấp uỷ nơi công tác và nơi cư trú, các tổ chức đoàn thể mà mình là thành viên đánh giá cao về kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, về ý thức trách nhiệm đối với nhân dân và phải có thời gian phấn đấu ít nhất là 24 tháng đối với trường hợp vi phạm sinh con thứ ba hoặc 36 tháng đối với trường hợp vi phạm sinh con thứ tư kể từ ngày bị đưa ra khỏi Đảng đến ngày chi bộ họp xét đề nghị kết nạp vào Đảng.
- Việc kết nạp lại đảng viên bị đưa ra khỏi Đảng do vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình vào Đảng phải được ban thường vụ cấp uỷ trực thuộc Trung ương đồng ý bằng văn bản trước khi ban thường vụ cấp uỷ huyện (hoặc tương đương) quyết định kết nạp.
Tiêu chuẩn, điều kiện, thẩm quyền kết nạp vào Đảng đối với quần chúng vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình bao gồm:
- Quần chúng vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình chỉ được xem xét, kết nạp vào Đảng khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của Trung ương và yêu cầu thực tế của công tác xây dựng Đảng của địa phương, đơn vị; là người có uy tín trong cơ quan, đơn vị, cộng đồng dân cư, được cấp uỷ nơi công tác và nơi cư trú, các tổ chức đoàn thể mà mình là thành viên đánh giá cao về kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, về ý thức trách nhiệm đối với nhân dân và phải có thời gian phấn đấu ít nhất là 24 tháng đối với trường hợp vi phạm sinh con thứ ba hoặc 36 tháng đối với trường hợp vi phạm sinh con thứ tư kể từ ngày sinh con đến ngày chi bộ họp xét đề nghị kết nạp vào Đảng.
- Việc kết nạp quần chúng vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình vào Đảng do ban thường vụ cấp uỷ huyện (hoặc tương đương) xem xét, quyết định.
Như vậy, so với Quy định số 173-QĐ/TW ngày 11 tháng 3 năm 2013 của Ban Bí thư khóa XI thì Văn bản số 05-QĐ/TW có các điểm mới cần chú ý sau:
Một là, về trích yếu nội dung văn bản, Quy định 173 là “kết nạp lại đối với đảng viên bị đưa ra khỏi Đảng và kết nạp quần chúng vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình vào Đảng” thì Văn bản 05 chỉ nêu ngắn gọn là “việc kết nạp người vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình vào Đảng”. Như vậy phần trích yếu nội dung văn bản của Quy định 05 ngắn gọn, dễ nhớ hơn.
Hai là, Quy định 173 chỉ quy định điều kiện, thẩm quyền xem xét kết nạp, thì trong Quy định 05, ngoài điều kiện và thẩm quyền đã bổ sung thêm tiêu chuẩn khi xem xét kết nạp.
Ba là, về những trường hợp sinh con không bị coi là vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình: ngoài 8 trường hợp được quy định tại Quy định 173 thì Quy định 05 bổ sung thêm một trường hợp mới đó là: Trường hợp sinh con thứ ba do mang thai ngoài ý muốn, nếu thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá gia đình gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ người mẹ (có xác nhận của bệnh viện cấp huyện và tương đương trở lên)
Bốn là, về các trường hợp không xem xét kết nạp lại và kết nạp vào Đảng: Quy định 173 quy định có 03 trường hợp không xem xét kết nạp lại và kết nạp vào Đảng là: 1) Đảng viên sau khi bị đưa ra khỏi Đảng vì các lỗi vi phạm khác nhau lại vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. 2) Đảng viên vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình bị đưa ra khỏi Đảng theo Quyết định số 09-QĐ/TW, ngày 24/3/2011 của Bộ Chính trị về bổ sung, sửa đổi Điều 7, Quy định số 94-QĐ/TW, ngày 15/10/2007 của Bộ Chính trị khóa X “về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình”. 3) Quần chúng đã vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình 2 lần trở lên. Quy định 05 quy định 02 trường hợp và có điểm mới đó là: 1) Đảng viên sau khi bị đưa ra khỏi Đảng lại vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. 2) Quần chúng đã vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình trong trường hợp sinh con thứ năm trở lên.
Năm là, về thời gian phấn đấu để được xem xét kết nạp lại vào Đảng đối với đảng viên bị đưa ra khỏi Đảng do vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; kết nạp đối với quần chúng vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình vào Đảng: Quy định 173 quy định “thời gian phấn đấu ít nhất là 60 tháng kể từ ngày bị đưa ra khỏi Đảng đến ngày chi bộ họp xét đề nghị kết nạp vào Đảng”; “60 tháng kể từ ngày vi phạm chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình”…“Đối với các trường hợp hiện đang giữ các chức vụ công tác chính quyền, đoàn thể (trưởng, phó thôn, bản, xóm, ấp; trưởng, phó các đoàn thể của thôn, bản, xóm, ấp...) ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đông đồng bào có đạo, dân tộc ít người, thì phải có thời gian phấn đấu ít nhất là 36 tháng kể từ ngày bị đưa ra khỏi Đảng đến ngày chi bộ họp xét đề nghị kết nạp vào Đảng”;.. “ít nhất là 36 tháng kể từ ngày vi phạm đến ngày chi bộ họp xét đề nghị kết nạp vào Đảng”, thì Quy định 05 chỉ quy định chung về thời gian phấn đấu cho tất cả các đối tượng, không có trường hợp riêng, đồng thời rút ngắn thời gian phấn đấu để xem xét kết nạp từ ít nhất 60 tháng xuống ít nhất 24 hoặc 36 tháng, cụ thể:
- Đối với kết nạp lại: thời gian phấn đấu ít nhất là 24 tháng đối với trường hợp vi phạm sinh con thứ ba hoặc 36 tháng đối với trường hợp vi phạm sinh con thứ tư kể từ ngày bị đưa ra khỏi Đảng đến ngày chi bộ họp xét đề nghị kết nạp vào Đảng;
- Đối với vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình: thời gian phấn đấu ít nhất là 24 tháng đối với trường hợp vi phạm sinh con thứ ba hoặc 36 tháng đối với trường hợp vi phạm sinh con thứ tư kể từ ngày sinh con đến ngày chi bộ họp xét đề nghị kết nạp vào Đảng.
Sáu là, về thẩm quyền kết nạp quần chúng vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình vào Đảng: đã phân cấp cho cấp huyện xem xét, quyết định, không xin ý kiến của ban thường vụ tỉnh ủy như trước đây, cụ thể: theo Quy định 173 thì “việc kết nạp quần chúng vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình vào Đảng phải được ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương đồng ý bằng văn bản, cấp ủy huyện (hoặc tương đương) xem xét, quyết định”, nay theo Quy định 05 “việc kết nạp quần chúng vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình vào Đảng do ban thường vụ cấp uỷ huyện (hoặc tương đương) xem xét, quyết định”.
Nguyễn Thế Minh