Một số khó khăn từ thực tiễn tổ chức thi hành khoản án phí

03/01/2023
Án phí là khoản chi phí về xét xử một vụ án mà đương sự phải nộp trong mỗi vụ án do cơ quan có thẩm quyền quy định. Án phí bao gồm: Án phí hình sự; Án phí dân sự gồm có các loại án phí giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; Án phí hành chính. Mức án phí, lệ phí tòa án được quy định cụ thể tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án(Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14). Theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014(Luật THADS), án phí, lệ phí tòa án là một trong những loại việc cơ quan THADS chủ động ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành. Tuy nhiên, việc tổ chức thi hành án đối với khoản án phí trong thực tiễn vẫn còn gặp nhiều khó khăn.


Một là: Đối với khoản án phí có giá trị nhỏ
 
Theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, mức án phí hình sự sơ thẩm mà người bị kết án phải nộp hiện nay là 200.000đ; mức án phí áp dụng đối với việc tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động không có giá ngạch là 300.000đ. Đối với vụ án liên quan đến nghĩa vụ cấp dưỡng mà các đương sự thỏa thuận được với nhau về mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng trước khi mở phiên tòa nhưng có yêu cầu Tòa án ghi nhận trong bản án, quyết định thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chịu 50% mức án phí dân sự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch theo đó, tùy từng trường hợp, mức án phí cấp dưỡng là 150.000đ.
 
Ngoài những vụ việc Tòa án đã thông báo yêu cầu đương sự nộp tiền tạm ứng án phí trước khi xét xử, thực tiễn tổ chức thi hành án đối với số tiền án phí có giá trị nhỏ rất khó khăn. Đối với các bản án, quyết định hình sự, người phải thi hành án thường phải chấp hành hình phạt tù, một số đối tượng nghiện ma túy, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, để thu được số tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ đôi khi cũng rất gian nan. Đối với những việc thi hành án Hôn nhân gia đình, việc thu tiền đối với các khoản án phí phát sinh sau ly hôn như án phí cấp dưỡng cũng rất khó khăn do đương sự sau khi ly hôn cũng thường bỏ đi nơi khác, việc tìm kiếm thông tin liên quan đến đương sự để thi hành khoản án phí cấp dưỡng cũng làm mất rất nhiều thời gian và công sức của Chấp hành viên và cơ quan THADS. Để thi hành các khoản tiền án phí này, Chấp hành viên thường không thể áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án do giá trị số tiền phải nộp quá nhỏ, không đủ để chi phí cưỡng chế thi hành án. Do đó Chấp hành viên thường chỉ có thể thuyết phục vận động đương sự tự nguyện thi hành hoặc vận động người thân của người phải thi hành án nộp thay (thậm chí nhiều trường hợp người phải thi hành án không có người thân thích hoặc người thân thích của họ từ chối nộp thay).
 
Trình tự thủ tục tổ chức thi hành án đối với một vụ việc có giá trị nhỏ như 200.000đ cũng giống như tổ chức thi hành án đối với các vụ việc thi hành án có giá trị lớn. Việc thiết lập văn bản, giấy tờ và tống đạt các loại văn bản, giấy tờ theo đúng quy định pháp luật làm tiêu tốn khá nhiều thời gian và công sức của chấp hành viên cơ quan THADS. Thực tiễn cho thấy các chi phí mà cơ quan THADS phải bỏ ra để tổ chức thu các khoản án phí này cũng gây tốn kém không ít cho ngân sách nhà nước.
 
Có thể thấy mức án phí quá thấp chỉ mang tính chất tượng trưng, vì số tiền mà người bị kết án phải nộp (án phí hình sự sơ thẩm: 200.000đ) hoặc án phí cấp dưỡng 150.000đ không đủ để chi phí cho bất kỳ việc xét xử vụ án nào và cũng không tác động nhiều đến nguồn thu ngân sách nhà nước. Xét đến mục đích răn đe, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của người bị kết án thì với khoản tiền nhỏ đó, tính chất răn đe cũng khó đạt hiệu quả. Mặt khác, khoản án phí này trong nhiều trường hợp cũng làm phát sinh thêm thủ tục hành chính trong việc xóa án tích của người bị kết án.
 
Do đó, để nâng cao hiệu quả thi hành án đối với các việc thi hành án này, đề nghị xem xét quy định đối với khoản án phí có giá trị nhỏ, Tòa án có thể yêu cầu đương sự nộp các khoản tiền án phí theo hình thức tạm thu trước khi xét xử (tương tự như việc nộp tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm) rồi sau đó cơ quan thi hành án tiến hành xử lý, nhập ngân sách nhà nước sẽ góp phần giảm tải một số lượng lớn công việc cho hệ thống cơ quan THADS, giúp tiết kiệm thời gian, nhân lực và chi phí của nhà nước.
 
Hai là: Đối với khoản án phí không xác định rõ nghĩa vụ thi hành của từng người
 
Theo Điều 25, 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 thì Trường hợp vụ án có nhiều nguyên đơn mà mỗi nguyên đơn có yêu cầu độc lập thì mỗi nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí theo yêu cầu riêng của mỗi người. Trường hợp các nguyên đơn cùng chung một yêu cầu thì các nguyên đơn phải nộp chung tiền tạm ứng án phí. Trường hợp vụ án có nhiều bị đơn mà mỗi bị đơn có yêu cầu phản tố độc lập thì mỗi bị đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí theo yêu cầu riêng của mỗi người. Trường hợp các bị đơn cùng chung một yêu cầu phản tố thì các bị đơn phải nộp chung tiền tạm ứng án phí. Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí sơ thẩm. Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận; Nguyên đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn không được Tòa án chấp nhận.
 
Trong thực tiễn, đối với đương sự là vợ chồng, tòa án thường tuyên nộp chung khoản tiền án phí. Tuy nhiên, trong một số trường hợp việc tòa án tuyên chung số tiền án phí lại dẫn đến khó khăn khi tổ chức thi hành án. Ví dụ: bản án tuyên vợ chồng ông A bà B phải nộp số tiền án phí là 25.324.000đ. ông A và bà B không có bất cứ tài sản chung nào. Quá trình tổ chức thi hành án, xác minh được biết ông A có khoản tiền được tặng cho riêng là 50.000.000đ và ông A không sáp nhập số tiền đó vào tài sản chung vợ chồng. Để thi hành án đối với trường hợp này, nếu trừ toàn bộ nghĩa vụ thi hành án của cả ông A và bà B thì chưa thật sự hợp lý, tuy nhiên cũng không thể xác định phần nghĩa vụ của vụ của ông A, bà B trong trường hợp này do bản án, quyết định của tòa án không chia tách nghĩa vụ của từng người. Điều này cũng dẫn đến những khó khăn nhất định trong quá trình tổ chức thi hành án. Do đó, đối với khoản án phí mà một bên bị đơn là vợ chồng, Tòa án có thể xem xét tuyên cả hai vợ chồng đều phải có nghĩa vụ liên đới hoặc tách bạch nghĩa vụ của từng người trong phần nghĩa vụ chung để thuận lợi cho việc tổ chức thi hành án.
Hoàng Thanh Hoa, Học viện Tư pháp