Các cơ chế bảo đảm thi hành án hành chính theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP và một số đề xuất, kiến nghị hoàn thiện

06/10/2023


Thể chế hóa nguyên tắc Hiến định: “Bản án, quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”[1], Luật Tố tụng hành chính (TTHC) năm 2015 đã dành một chương quy định về thủ tục thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính (Chương XIX), đồng thời giao Chính phủ quy định cụ thể về thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính (THAHC) và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án.[2] Trên cơ sở đó, ngày 01/7/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 71/2016/NĐ-CP quy định về thời hạn, trình tự, thủ tục THAHC và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Đây là một bước hoàn thiện quan trọng về thể chế THAHC trong Luật TTHC năm 2015 so với Luật TTHC năm 2010 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996. Để bảo đảm thực thi bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính tại Việt Nam, pháp luật hiện hành đã quy định các cơ chế bảo đảm THAHC, cụ thể là cơ chế Tòa án đã xét xử ra quyết định buộc THAHC; cơ chế theo dõi THAHC của cơ quan thi hành án dân sự (THADS); cơ chế kiểm sát hoạt động THAHC của Viện kiểm sát nhân dân và cơ chế  bảo đảm THAHC bằng các chế tài xử lý vi phạm.
I. Các cơ chế bảo đảm THAHC

1. Cơ chế Tòa án ra quyết định buộc THAHC

Tòa án ra quyết định buộc THAHC là một trong những điểm mới của Luật TTHC năm 2015 so với Luật TTHC năm 2010 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996. Theo đó, người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ra quyết định buộc THAHC, đây được coi là một quyết định cưỡng chế THAHC đối với người phải thi hành án vi phạm nghĩa vụ tự nguyện thi hành án. Ngoài ý nghĩa là một cơ chế bảo đảm THAHC, quy định này còn có ý nghĩa trong việc bảo đảm sự kiểm soát của quyền tư pháp đối với quyền hành pháp, một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức bộ máy nhà nước đã được Hiến pháp năm 2013 quy định. Đồng thời là sự thể chế chủ trương của Đảng trong việc tăng cường vai trò của TAND trong công tác THAHC được đề ra tại Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020.

2. Cơ chế cơ quan THADS theo dõi THAHC

Để nâng cao hiệu quả cũng như tạo sự minh bạch trong việc thực thi các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, Luật TTHC năm 2015 và Nghị định 71/2016/NĐ-CP quy định trách nhiệm của cơ quan THADS trong việc theo dõi THAHC. Theo đó, theo dõi THAHC được hiểu là việc cơ quan THADS chủ động nắm thông tin và cập nhật về tình hình thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, trên cơ sở nội dung thông tin nắm được, đề nghị người phải thi hành án chấp hành nghiêm bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành; đồng thời kiến nghị cơ quan có thẩm quyền có giải pháp bảo đảm thực thi bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế. Theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP, cơ quan THADS có thẩm quyền theo dõi THAHC đối với các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính mà Tòa án cùng cấp trên địa bàn đã xét xử sơ thẩm. Thẩm quyền này không thay đổi trong các vụ việc có bản án, quyết định phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án của Tòa án; đồng thời, Nghị định số 71/2016/NĐ-CP đã quy định rõ trách nhiệm theo dõi THAHC của cơ quan THADS với các nhiệm vụ cơ bản sau: (1) Ra thông báo về việc tự nguyện thi hành án gửi người phải thi hành án; (2) làm việc với người phải thi hành án để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định của Tòa án khi nhận được quyết định buộc THAHC của Tòa án; (3) tổ chức đăng tải công khai quyết định buộc THAHC trên Trang thông tin điện tử của Cục THADS theo quy định tại Điều 30 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP; (4) kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý trách nhiệm đối với người phải thi hành án chậm thi hành án, không chấp hành, chấp hành không đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa án theo quy định.

3. Cơ chế Viện kiểm sát kiểm sát hoạt động THAHC

Theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan nhà nước thực hiện hai chức năng: Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp). Theo điểm g khoản 2 Điều 6 Luật này, công tác kiểm sát việc THAHC là một trong các công tác thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân. Theo quy định tại Điều 315 Luật TTHC năm 2015, Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án bảo đảm việc thi hành bản án, quyết định kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật. Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ THAHC và cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức phải chấp hành bản án, quyết định của Tòa án để có biện pháp tổ chức thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án. Theo quy định tại Điều 4, khoản 2 Điều 6, Điều 28 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và Điều 315 Luật TTHC năm 2015, khi thực hiện công tác kiểm sát THAHC, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động THAHC. Nói cách khác, đối tượng kiểm sát của công tác kiểm sát THAHC là việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc THAHC, bao gồm hhoạt động của cơ quan THADS: (1) Trong việc tiếp nhận bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính; phân công CHV theo dõi việc thi hành án; (2) trong việc ra văn bản thông báo về việc tự nguyện thi hành án để gửi cho người phải thi hành án; (3) trong việc làm việc và phải lập biên bản làm việc với người phải thi hành án để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định của Tòa án sau khi nhận được quyết định buộc THAHC; trong việc kiến nghị người có thẩm quyền xử lý trách nhiệm với người phải thi hành án chậm hoặc không chấp hành án, chấp hành không đúng, không đầy đủ nội dung bản án, quyết định; (4) trong việc lập hồ sơ theo dõi việc THAHC; (5) trong việc thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về THAHC theo quy định (Điều 14 Nghị định 71/2016/NĐ- CP).

4. Bảo đảm THAHC bằng các chế tài xử lý vi phạm

a) Các biện pháp xử lý kỷ luật, trách nhiệm vật chất và công khai thông tin
- Xử lý kỷ luật: Xuất phát từ đặc thù vi phạm trong THAHC không chỉ là vi phạm trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước mà còn là vi phạm bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính có hiệu lực thi hành. Trong khi pháp luật về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức tại thời điểm xây dựng Nghị định số 71/2016/NĐ-CP chưa có cơ sở cụ thể để xử lý kỷ luật đối với những hành vi vi phạm phát sinh trong hoạt động THAHC, vì vậy Nghị định số 71/2016/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định trực tiếp, cụ thể hành vi vi phạm và hình thức xử lý kỷ luật tương ứng đối với công chức, viên chức có hành vi vi phạm trong THAHC trên cơ sở bảo đảm phù hợp với Luật TTHC năm 2015, Luật cán bộ, công chức, thống nhất với các Nghị định của Chính phủ về xử lý kỷ luật đối với công chức, viên chức. Riêng nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục và các nội dung khác có liên quan đến việc xử lý kỷ luật công chức, viên chức vi phạm trong THAHC được quy định viện dẫn thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý kỷ luật công chức, viên chức. Các hành vi của công chức, viên chức vi phạm trong THAHC bị xử lý kỷ luật bao gồm: (1) Hành vi chậm thi hành án; (2) hành vi chấp hành nhưng không đúng nội dung bản án, quyết định của Tòa án trong thời hạn tự nguyện quy định tại khoản 2 Điều 311 Luật TTHC; (3) hành vi sau khi đã có quyết định buộc THAHC mà vẫn không chấp hành, chấp hành không đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Tòa án; (4) hành vi lợi dụng chức vụ cản trở việc thi hành án; (5) hành vi để xảy ra việc cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân mà mình là Thủ trưởng có hành vi chậm thi hành án hoặc chấp hành nhưng không đúng nội dung bản án, quyết định của Tòa án; (6) hành vi từ chối làm việc hoặc không cung cấp, cung cấp nhưng không đầy đủ thông tin, tài liệu có liên quan về quá trình, kết quả thi hành án cho các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Luật TTHC và Nghị định 71/2016/NĐ-CP; (7) có thái độ hách dịch, cửa quyền hoặc gây khó khăn, phiền hà đối với người được thi hành án trong quá trình tổ chức thi hành án; (8) bị phạt tù cho hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ về tội không chấp hành án hoặc tội cản trở việc thi hành án; (9) bị phạt tù mà không được hưởng án treo về tội không chấp hành án hoặc tội cản trở việc thi hành án... Tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, mức độ hậu quả gây ra của hành vi vi phạm (nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng) mà công chức, viên chức vi phạm nghĩa vụ THAHC bị xử lý bằng các hình thức: Khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc. Tuy nhiên, việc xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức trong THAHC theo quy định của pháp luật phải chứng minh được lỗi cố ý không chấp hành án của cán bộ, công chức, viên chức, trong khi pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về chủ thể có thẩm quyền xác định lỗi cũng như các tiêu chí hay cách thức, trình tự, thủ tục, thời hạn để xác định có lỗi hay không có lỗi, lỗi cố ý hay vô ý của người phải thi hành án trong việc THAHC nên mặc dù vẫn còn những bản án hành chính chưa được thi hành xong, không ít bản án đã có hiệu lực thi hành rất lâu, Tòa án đã ra quyết định buộc THAHC, tuy nhiên, việc xử lý trách nhiệm đối với cán bộ, công chức, viên chức trong THAHC trên thực tế vẫn gặp rất nhiều khó khăn, đến nay chưa có trường hợp nào bị xử lý ký luật trong THAHC.
- Trách nhiệm vật chất: Ngoài việc bị xử lý kỷ luật, người phải thi hành án trong quá trình thi hành án mà gây ra thiệt hại thì phải khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại, hoàn trả theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, pháp luật về dân sự (Điều 314 Luật TTHC năm 2015; Điều 29 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP).  
- Công khai thông tin: Nghị định số 71/2016/NĐ-CP quy định về công khai thông tin về việc không chấp hành án, theo đó trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định buộc THAHC, Cục THADS tổ chức công khai quyết định buộc THAHC bằng hình thức đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Cục THADS đối với các vụ việc thuộc thẩm quyền theo dõi của Cục và các Chi cục THADS trực thuộc; đồng thời tích hợp trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục THADS thuộc Bộ Tư pháp và Cổng thông tin điện tử Chính phủ đối với các vụ việc người phải thi hành án là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
- Ngoài các hình thức xử lý kỷ luật, bị công khai thông tin về việc không chấp hành án, Điều 31 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP còn quy định về xem xét đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức vi phạm pháp luật về THAHC, theo đó cơ quan, người có thẩm quyền không xét thi đua, khen thưởng; không đánh giá, phân loại ở mức độ hoàn thành tốt nhiệm vụ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức vi phạm pháp luật về THAHC.
b) Về xử phạt vi phạm hành chính
Điều 314 Luật TTHC năm 2015, Điều 27 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thi hành án cố ý không chấp hành bản án, quyết định của Tòa án, quyết định buộc thi hành án của Tòa án có thể bị xử phạt vi phạm hành chính; người lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án có thể bị xử phạt vi phạm hành chính. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử phạt, mức xử phạt vi phạm hành chính thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Kết quả xử phạt vi phạm hành chính được gửi cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát và cơ quan THADS cùng cấp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm.
c) Về xử lý hình sự
Liên quan đến các tội danh về thi hành án, Bộ luật hình sự năm 2015 quy định 03 tội danh, gồm: (1) Tội không thi hành án (quy định tại Điều 379); tội không chấp hành án (quy định tại Điều 380) và tội cản trở việc thi hành án (quy định tại Điều 381). Điểm khác biệt ở ba tội danh này là chủ thể phạm tội, theo đó, trong hoạt động THAHC, những vi phạm đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ có thể bị truy cứu ở 02 tội danh, gồm tội không chấp hành án và tội cản trở việc thi hành án. Riêng tội danh không thi hành án, do chủ thể phạm tội phải là người có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc tổ chức thi hành án, trong khi hoạt động THAHC theo quy định của pháp luật hiện hành không có chủ thể ra quyết định thi hành án và cũng không có chủ thể thứ ba đứng ra tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, vì vậy, tội danh này không bị áp dụng trong hoạt động THAHC. Về khung hình phạt áp dụng đối với từng tội danh: Điều 380 BLHS năm 2015 quy định tội không chấp hành án theo đó, người phạm tội tùy từng trường hợp cụ thể bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm, cao nhất bị phạt tù từ 2 năm đến 5 năm. Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng. Điều 381 BLHS năm 2015 quy định tội cản trở việc thi hành án, theo đó người lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án thì tùy từng trường hợp cụ thể, bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm, cao nhất bị phạt tù đến 5 năm; Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ từ 1 năm đến 5 năm.
Thực tế hiện nay, Luật Xử lý vi phạm hành chính chưa có quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong THAHC; Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung) tại Điều 380 có quy định về tội không chấp hành án, tuy nhiên, tình tiết cấu thành tội danh này đó là hành vi không chấp hành án đã phải bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính, trong khi đó pháp luật về xử lý vi phạm hành chính lại chưa có quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi không chấp hành án hành chính, dẫn đến việc không thỏa mãn cấu thành tội danh “Không chấp hành án” mà Bộ luật hình sự năm 2015 đã quy định. Tương tự, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 hiện nay cũng không có quy định về bồi thường nhà nước phát sinh trong lĩnh vực THAHC. Vì vậy, khi người phải thi hành án chậm hoặc không chấp hành án thì việc xem xét, xử lý vi phạm (hành chính hoặc hình sự) đối với người phải thi hành án và thực hiện bồi thường thiệt hại (nếu có) rất khó được thực hiện trên thực tế.
II. Một số đề xuất, kiến nghị hoàn thiện
Xuất phát từ đặc thù trong quan hệ THAHC, bên phải thi hành án phần lớn là các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước và bên được thi hành án là tổ chức, cá nhân, công dân – quan hệ luôn tồn tại sự bất bình đẳng giữa một bên là chủ thể mang quyền lực nhà nước với một bên là chủ thể thuộc đối tượng quản lý nhà nước. Trong khi THAHC thực hiện theo cơ chế “tự thi hành”, không có một cơ quan chuyên trách để tổ chức THAHC trong trường hợp người phải thi hành án vi phạm nghĩa vụ THAHC như trong lĩnh vực THADS, THAHS. Vì vậy, việc quy định các cơ chế tác động của chủ thể thứ ba vào quá trình THAHC bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính được thi hành trên thực tế là cần thiết, trong đó:
- Tiếp tục duy trì cơ chế Tòa án ra quyết định buộc THAHC đối với các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính có nội dung chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện. Quy định này bảo đảm thực hiện nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”; phù hợp với đường lối, quan điểm của Đảng đó là: “tăng cường vai trò của Tòa án trong công tác thi hành án” đã được Kết luận số 92-KL/TW ngày 12-3-2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Tuy nhiên cần nhắc không quy định về ra quyết định buộc THAHC đối với bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính có nội dung bác/không chấp nhận yêu cầu khởi kiện, bởi lẽ quy định này bảo đảm đơn giản hóa thủ tục thi hành các quyết định hành chính đã được ban hành đúng quy định pháp luật; không tư pháp hóa việc thực hiện các quyết định hành chính vốn thuộc trách nhiệm tổ chức thực hiện của cơ quan, người đã ban hành quyết định hành chính.
- Tiếp tục duy trì cơ chế theo dõi THAHC của cơ quan THADS. Với cơ chế THAHC là cơ chế “tự thi hành” của của cơ quan, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước là bên phải THAHC thì việc duy trì trách nhiệm theo dõi thi hành án hành chính của cơ quan THADS là cần thiết, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả THAHC trên thực tế và giúp các cấp có thẩm quyền nắm bắt được thực trạng công tác THAHC trên phạm vị địa phương và cả nước. Bên cạnh đó, đề nghị bổ sung quy định về phạm vi trách nhiệm của cơ quan THADS trong công tác theo dõi, đôn đốc THAHC, kiến nghị người có thẩm quyền xử lý trách nhiệm người phải thi hành án, làm căn cứ thống nhất triển khai thực hiện trên thực tế thi hành, khắc phục tình trạng còn có những quan điểm, ý kiến khác nhau về phạm vi bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính thuộc trách nhiệm theo dõi THAHC của cơ quan THADS. Theo đó, quy định rõ cơ quan THADS thực hiện theo dõi đối với các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính có nội dung tuyên chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện của đương sự; quy định rõ thời hạn, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện và trả lời các kiến nghị của cơ quan THADS trong hoạt động THAHC, bởi lẽ các kiến nghị của cơ quan THADS cũng là nhân danh quyền lực công trong lĩnh vực quản lý nhà nước về THAHC, cần phải được tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh và thông báo kết quả cho cơ quan đã kiến nghị được biết.
- Tiếp tục duy trì cơ chế kiểm sát THAHC của Viện kiểm sát nhân dân các cấp đối với hoạt động THAHC. Việc duy trì cơ chế kiểm sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án của Viện kiểm sát nhân dân các cấp nhằm bảo đảm việc thi hành bản án, quyết định kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật, phù hợp với Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Tuy nhiên, nhằm nâng cao hơn nữa  hiệu quả của cơ chế kiểm sát THAHC của Viện kiểm sát nhân dân các cấp đối với hoạt động THAHC, Luật Tố tụng hành chính cần quy định rõ về trách nhiệm trả lời, thời hạn trả lời kiến nghị hoặc thông báo kết quả thực hiện đối với kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân. Đồng thời, Luật Tố tụng hành chính cần bổ sung trách nhiệm của các cơ quan trong trường hợp chậm hoặc không trả lời kiến nghị hoặc thông báo kết quả thực hiện đối với kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân.
- Tiếp tục duy trì và thực hiện nghiêm túc các chế tài xử lý vi phạm trong THAHC; đồng thời, Luật TTHC cần nghiên cứu quy định chặt chẽ hơn, nghiêm khắc hơn các chế tài nhằm buộc các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước phải thi hành bản án, quyết định của Tòa án để bảo đảm hiệu quả công tác THAHC. Theo đó, ngoài việc tiếp tục quy định các chế tài xử lý trách nhiệm đối với người phải thi hành án không chấp hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính như pháp luật hiện hành, cần đề xuất quy định biện pháp xử phạt tiền đối với hành vi chậm, hành vi không chấp hành án hành chính. Cụ thể, biện pháp này sẽ do Tòa án xét xử quyết định ngay trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính hoặc trong quyết định buộc THAHC nhằm ngăn chặn việc không thi hành án của bên phải thi hành án và là chế tài áp dụng khi các chủ thể này vi phạm nghĩa vụ THAHC. Đối với trường hợp người phải thi hành án là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, thì số tiền phạt này cần được quy định lấy từ nguồn tiết kiệm chi quản lý hành chính nhà nước của cơ quan, đơn vị là người phải THAHC hoặc là của cơ quan, đơn vị nơi người phải thi hành án cán bộ, công chức đang công tác của người phải THAHC.
Bên cạnh đó, quy định cụ thể về chủ thể có thẩm quyền xác định lỗi cũng như  quy định các tiêu chí hay cách thức, trình tự, thủ tục, thời hạn để xác định có lỗi hay không có lỗi, lỗi cố ý hay vô ý của người phải thi hành án trong việc THAHC làm cơ sở xem xét, xử lý ký luật trong THAHC cũng như cần nghiên cứu, bổ sung các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong THAHC vào Luật Xử lý vi phạm hành chính làm căn cứ để xử phạt vi phạm hành chính hoặc xem xét xử lý hình sự theo quy định của pháp luật; đồng thời, nghiên cứu, bổ sung các quy định về bồi thường nhà nước phát sinh trong lĩnh vực THAHC vào Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước để làm căn cứ thực hiện bồi thường nhà nước trong THAHC.
Nguyễn Thanh Nam, Vụ Nghiệp vụ 3, Tổng cục THADS.
 

[1] Điều 106 Hiến pháp năm 2013
[2] Khoản 3 Điều 312 Luật TTHC năm 2015