Luật thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2009 và đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2014, 2022 cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo dựng một hành lang pháp lý giúp nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự. Công tác thi hành án dân sự đã có những chuyển biến tích cực, bộ máy tổ chức các cơ quan thi hành án dân sự địa phương nhanh chóng được kiện toàn, số lượng cán bộ, công chức thi hành án dân sự tăng kể cả về số và chất lượng. Việc xử lý tài sản bảo đảm trong thi hành án được thực hiện hiệu quả hơn, có ý nghĩa quan trọng trong công tác thu hồi nợ xấu tại các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, nhiều quy định của Luật còn gây khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện, như:
1. Về việc thực hiện Luật thi hành án dân sự liên quan đến phí thi hành án dân sự (Điều 3)
* Khó khăn, vướng mắc:
Khoản 7 Điều 3 Luật thi hành án dân sự quy định: “7. Phí thi hành án là khoản tiền mà người được thi hành án phải nộp khi nhận được tiền, tài sản theo bản án, quyết định”, Điều 60 Luật thi hành án dân sự quy định: “Người được thi hành án phải nộp phí thi hành án dân sự”. Quy định này là bất hợp lý và chưa công bằng với người được thi hành án. Người được thi hành án không thể bắt buộc cũng như cưỡng chế người phải thi hành án thực hiện những gì tòa đã tuyên. Vì vậy, trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không thực hiện thì phần lỗi đó thuộc về người phải thi hành án. Mặc dù người được thi hành án gửi đơn yêu cầu nhưng phần lỗi thuộc về người phải thi hành án vì họ có trách nhiệm và nghĩa vụ phải thực hiện theo phán quyết của Tòa án. Vì vậy, trách nhiệm nộp phí thi hành án phải thuộc về người phải thi hành án, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị sửa đổi Khoản 7 Điều 3 theo hướng phí thi hành án là khoản tiền mà người phải thi hành án phải nộp khi nhận thông báo thi hành án từ cơ quan thi hành án có thẩm quyền; và sửa Điều 60 theo hướng người phải thi hành án phải nộp phí thi hành án dân sự, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác hoặc có quy định khác.
2. Về xác minh điều kiện thi hành án (Điều 44)
* Khó khăn, vướng mắc:
- Khoản 1 Điều 44 Luật thi hành án dân sự quy định về xác minh điều kiện thi hành án: “1. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến hành xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải tiến hành xác minh ngay.”
Theo quy định nêu trên, khi hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên chủ động tiến hành xác minh điều kiện thi hành án bao gồm thông tin về tài sản, thu nhập và các điều kiện khác của người phải thi hành án. Tuy nhiên, có trường hợp Bản án tuyên tổ chức tín dụng được quyền yêu cầu xử lý đối với tài sản bảo đảm là máy móc thiết bị, phương tiện giao thông vận tải,… nhưng chưa xác định rõ địa chỉ tài sản thì Chấp hành viên cũng chưa có sự chủ động trong việc tìm kiếm, xác minh địa chỉ tài sản mà thường yêu cầu tổ chức tín dụng cung cấp thông tin địa chỉ tài sản cụ thể thì mới tiến hành xử lý.
- Điểm c Khoản 1 Điều 44a Luật thi hành án dân sự quy định về một trong các trường hợp Cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án là: “Chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án...”. Trong khi đó, điểm b Khoản 1 Điều 48 Luật này cũng quy định một trong những điều kiện ra quyết định hoãn thi hành án là “Chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án…”. Như vậy, có sự chồng chéo trong quy định của pháp luật về vấn đề này, dẫn đến việc Cơ quan thi hành án dân sự có thể tự mình lựa chọn ra quyết định hoãn thi hành án hoặc ra quyết định xác định việc chưa có điều kiện thi hành án.
- Theo quy định của Luật thi hành án dân sự, Chấp hành viên có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án; và tổ chức tín dụng đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Theo đó, tổ chức tín dụng có trách nhiệm cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, điều luật không quy định về việc cung cấp tài liệu liên quan đến các thông tin đó. Tuy nhiên, thực tế phát sinh, Chấp hành viên yêu cầu tổ chức tín dụng cung cấp bản sao các tài liệu gồm Giấy chứng nhận Quyền sở hữu tài sản bảo đảm, Hợp đồng thế chấp, Hợp đồng tín dụng và các khế ước nhận nợ, các giấy tờ tài liệu liên quan trong toàn bộ quá trình cho vay, Giấy tờ tùy thân của khách hàng...Có trường hợp, tài sản bảo đảm tại thời điểm thế chấp không còn đứng tên người phải thi hành án, mặc dù, tổ chức tín dụng đã phản hồi tài sản thế chấp không đứng tên người phải thi hành án, nhưng cơ quan thi hành án dân sự không đồng ý và cho rằng tổ chức tín dụng không hợp tác, gây khó khăn cho cơ quan thi hành án dân sự.
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị bổ sung quy định tại Điều 44 về việc thực hiện việc xác minh điều kiện thi hành án cũng như công tác phối hợp xử lý đối với các trường hợp tài sản thi hành án chưa rõ địa chỉ, cũng như quy định cụ thể về phân loại thông tin/tài liệu phục vụ việc xác minh thi hành án; trách nhiệm của các cơ quan/tổ chức có thẩm quyền nắm giữ thông tin/tài liệu để thực hiện việc cung cấp thông tin/tài liệu theo đúng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan/tổ chức đó.
3. Về việc Ủy thác thi hành án và ủy thác xử lý tài sản (Điều 55)
* Khó khăn, vướng mắc:
Khoản 2 Điều 55 Luật thi hành án dân sự quy định: “Cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản trên địa bàn, đồng thời có thể ủy thác xử lý tài sản cho cơ quan thi hành án dân sự nơi có tài sản được bản án, quyết định tuyên kê biên, phong tỏa hoặc xử lý tài sản để bảo đảm thi hành án mà tài sản ở nhiều địa phương khác nhau”;
Như vậy, ủy thác xử lý tài sản theo quy định nêu trên không phải là thủ tục “bắt buộc” mà chỉ là “có thể”, tùy thuộc vào quyết định chủ quan của cơ quan thi hành án dân sự, dẫn đến tình trạng, trong thực tế, việc ủy thác thi hành án giữa các cơ quan thi hành án dân sự thực hiện theo phương án là cơ quan thi hành án dân sự đầu tiên xử lý xong tài sản tại địa bàn của mình sau đó mới ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự thứ 2 và cơ quan thi hành án dân sự thứ 2 xử lý xong tài sản thì mới ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự thứ 3… theo đó, việc xử lý tài sản bảo đảm bị kéo dài, phát sinh lãi vay, gây khó khăn cho quá trình xử lý nợ.
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị bổ sung quy định cụ thể tại Điều 55 về nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan thi hành án dân sự trong việc thực hiện ủy thác thi hành án đối với các trường hợp phải xử lý tài sản của người phải thi hành án ở nhiều địa phương khác nhau và cơ chế thực hiện nội dung này.
4. Về kế hoạch và biện pháp cưỡng chế thi hành án (Điều 71, 72)
* Khó khăn, vướng mắc:
Liên quan đến các Bản án có nội dung tuyên “buộc phải chuyển trả lại một số cổ phần cho ngân hàng”, vận dụng Khoản 5 Điều 71, cơ quan thi hành án dân sự ra Quyết định buộc “Chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng”.
Như vậy, biện pháp cưỡng chế của cơ quan thi hành án dân sự không đồng nhất với nội dung tuyên của bản án. Theo đó, việc chuyển trả lại cổ phần là việc chuyển quyền quản lý (nắm giữ, cầm giữ) hay quyền sở hữu tài sản, dẫn đến việc xử lý tài sản còn lúng túng, ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng.
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị bổ sung quy định xác định rõ các cơ sở, phạm vi, căn cứ để xác định biện pháp cưỡng chế thi hành án áp dụng phù hợp để giải quyết vụ việc. Ngoài ra, cần bổ sung quy định tại Điều 72 về Kế hoạch cưỡng chế thi hành án theo hướng xác định rõ: Thẩm quyền phê duyệt kế hoạch cưỡng chế, thời gian các cơ quan chức năng/ hữu quan phải thống nhất/phê duyệt xong kế hoạch cưỡng chế.
5. Về chi phí cưỡng chế thi hành án (Điều 73)
* Khó khăn, vướng mắc:
Khoản 4 Điều 73 Luật thi hành án dân sự quy định: “Chấp hành viên dự trù chi phí cưỡng chế và thông báo cho người phải thi hành án biết ít nhất 03 ngày làm việc trước ngày cưỡng chế đã được ấn định, trừ trường hợp cần thiết phải cưỡng chế ngay. Chi phí cưỡng chế thi hành án được tạm ứng từ ngân sách nhà nước.” Thực tế công tác thi hành án thì người được thi hành án thường phải tạm ứng trước các chi phí này để thúc đẩy và hỗ trợ công tác cưỡng chế thi hành án.
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị rà soát quy định về thủ tục tạm ứng chi phí cưỡng chế thi hành án từ ngân sách nhà nước để Cơ quan thi hành án dân sự có thể thuận tiện và chủ động tạm ứng trước phục vụ công việc theo đúng kế hoạch cưỡng chế đã được phê duyệt.
6. Về xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án (Điều 74)
* Khó khăn, vướng mắc:
Khoản 1 Điều 74 Luật thi hành án dân sự quy định về việc xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án: “1.Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.”
Hiện nay, khi xảy ra trường hợp này, chưa có quy định cụ thể hướng dẫn người được thi hành án sẽ yêu cầu Tòa án giái quyết theo thủ tục tố tụng dân sự cụ thể là (i) thủ tục giải quyết vụ việc dân sự, hay (ii) khởi kiện vụ án dân sự? Trường hợp khởi kiện vụ án dân sự thì việc xác định tư cách các bên tham gia (nguyên đơn, bị đơn) như thế nào?
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị bổ sung quy định tại Điều 74 hướng dẫn người được thi hành án cách thức xử lý trong trường hợp này.
7. Về giải quyết tranh chấp, yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án (Điều 75)
* Khó khăn, vướng mắc:
Theo nội dung bản án tuyên, tài sản bảo đảm được cơ quan thi hành án dân sự kê biên, phát mãi. Tuy nhiên, chủ tài sản không hợp tác, tạo tranh chấp giả (thường là chủ tài sản và bên thứ ba có hợp đồng mua bán viết tay đối với tài sản thế chấp và bên thứ ba này đã nộp đơn khởi kiện tại Tòa án đòi tài sản thế chấp) dẫn đến việc cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định hoãn thi hành án, theo đó, việc thi hành án của tổ chức tín dụng bị kéo dài thêm vài năm do phải chờ kết quả giải quyết vụ án tranh chấp quyền sở hữu, sử dụng tài sản thế chấp của bên thứ ba.
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị bổ sung quy định tại Điều 75 theo hướng trong trường hợp tài sản bảo đảm đã được bản án có hiệu lực tuyên phát mãi thu hồi nợ và đang trong giai đoạn thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự vẫn tiếp tục tiến hành thủ tục xử lý tài sản bảo đảm và thu nợ cho tổ chức tín dụng trên cơ sở áp dụng quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán theo pháp luật chung về giao dịch bảo đảm và nếu sau khi thanh toán cho tổ chức tín dụng còn dư khoản tiền nào thì cơ quan thi hành án dân sự sẽ giữ lại cho đến khi có kết quả giải quyết vụ án của bên thứ ba thì cơ quan thi hành án dân sự sẽ chuyển cho bên được thi hành án theo quy định hoặc trường hợp bên thứ ba rút đơn kiện thì cơ quan thi hành án dân sự chuyển trả số tiền này cùng lãi phát sinh (nếu có) cho bên bảo đảm.
8. Về điều kiện Cơ quan thi hành án dân sự được kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp tại tổ chức tín dụng (Điều 90)
* Khó khăn, vướng mắc:
Tại khoản 1 Điều 90 Luật thi hành án dân sự quy định: “1. Trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, Chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án.”
Thực tế có trường hợp Cơ quan thi hành án dân sự tiến hành kê biên, có văn bản yêu cầu tổ chức tín dụng đang nhận thế chấp tài sản phải giao nộp giấy tờ về tài sản mà chưa xác minh các tài sản khác của người phải thi hành án, chưa xác định giá trị nghĩa vụ được bảo đảm bằng tài sản đó tại tổ chức tín dụng và chi phí cưỡng chế thi hành án có lớn hơn giá trị tài sản thế chấp đó hay không, gây ảnh hưởng xấu đến quyền lợi của các tổ chức tín dụng (đặc biệt trong trường hợp bên vay đang nợ nhóm 1).
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị bổ sung quy định tại Điều 90 về trường hợp Cơ quan thi hành án dân sự chỉ được kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp tại tổ chức tín dụng khi đã thu thập đầy đủ thông tin, tài liệu xác định giá trị của tài sản bảo đảm đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án để đảm bảo khách quan, minh bạch trong thi hành án.
9. Về việc định giá tài sản bảo đảm để xử lý (Điều 98)
* Khó khăn, vướng mắc:
Khoản 1 Điều 98 Luật thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên quy định: “ …2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên tài sản, Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản kê biên trong các trường hợp sau đây: a) Đương sự không thỏa thuận được về giá và không thỏa thuận được việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá”.
Trên thực tế, việc xử lý tranh chấp hợp đồng tín dụng đến giai đoạn thi hành án thì hầu hết các bên không còn thỏa thuận được với nhau. Do đó, việc định giá sẽ do Chấp hành viên chỉ định để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, Điều 98 quy định giới hạn tổ chức thẩm định giá phải nằm trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên là không phù hợp với thực tế hoạt động thẩm định giá tài sản hiện nay. Thực tế cho thấy, có địa phương chỉ có 1 - 2 tổ chức thẩm định giá, nhưng năng lực chưa đáp ứng được các điều kiện để tham gia định giá theo yêu cầu đối với một số tài sản có tính đặc thù (như tài sản đảm bảo là dự án đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ, quyền tài sản khác …) dẫn đến việc xử lý tài sản bảo đảm còn chậm trễ. Vì vậy, để đảm bảo tính khách quan, hiệu quả, rút ngắn thời gian xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ, thì bất cứ tổ chức định giá nào có đủ năng lực đều được tham gia thẩm định giá mà không phụ thuộc vào nơi có tài sản kê biên.
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị sửa đổi Điều 98 theo hướng việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá không bị hạn chế chỉ nằm trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên.
10. Về việc định giá tài sản kê biên (Điều 99)
* Khó khăn, vướng mắc:
Trường hợp các đương sự không thoả thuận được về giá và lựa chọn đơn vị định giá, Cơ quan thi hành án sẽ chủ động lựa chọn đơn vị định giá. Rất nhiều vụ việc tài sản được định giá thấp (thậm chí rất thấp) so với giá thị trường ảnh hưởng đến việc đấu giá và có thể gây bất lợi cho bên được thi hành án (và cả bên phải thi hành án). Trong khi đó căn cứ theo Điểm b Khoản 1 Điều 99 Luật thi hành án dân sự quy định: “1. Việc định giá lại tài sản kê biên được thực hiện trong các trường hợp sau đây: … b) Đương sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản. Yêu cầu định giá lại chỉ được thực hiện một lần và chỉ được chấp nhận nếu đương sự có đơn yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo về kết quả thẩm định giá và phải nộp ngay tạm ứng chi phí định giá lại tài sản.” Quy định nêu trên giới hạn đương sự chỉ được yêu cầu định giá lại một lần và chịu phí của lần định giá này là không phù hợp, hạn chế quyền của người được thi hành án. Thực tế nhiều vụ việc sau khi định giá lại, giá trị của tài sản bảo đảm vẫn chưa tiệm cận được giá thị trường buộc Ngân hàng phải khiếu nại về giá định giá. Tuy nhiên việc giải quyết khiếu nại vẫn rất hạn chế. Bởi với quy định tại Điều 98 Luật thi hành án dân sự thì kể cả đương sự yêu cầu định giá lại thì Chấp hành viên vẫn là người chọn và ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá nên có thể kết quả thẩm định vẫn không đảm bảo khách quan.
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị sửa đổi Điều 99 theo hướng tăng số lần đương sự được đề nghị định giá giá trị tài sản bảo đảm bán đấu giá thi hành án. Trường hợp đương sự không đồng ý với kết quả thẩm định giá của tổ chức thẩm định giá đã ký hợp đồng thẩm định với Chấp hành viên thì đương sự được quyền lựa chọn và ký hợp đồng thẩm định giá với tổ chức thẩm định giá và lấy kết quả này làm giá khởi điểm bán đấu giá tài sản bảo đảm.
11. Về giải quyết tranh chấp về kết quả bản đấu giá tài sản thi hành án (Điều 102)
* Khó khăn, vướng mắc:
Khoản 2 Điều 102 Luật thi hành án dân sự quy định: “2. Người mua được tài sản bán đấu giá, Chấp hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán đấu giá tài sản.”. Quy định này đã làm hạn chế quyền của tổ chức tín dụng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình với tư cách là bên nhận tài sản đảm bảo trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật trong quá trình đấu giá tài sản.
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị sửa đổi khoản 2 Điều 102 theo hướng các bên liên quan trong quá trình xử lý tài sản đấu giá đều có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong quá trình đấu giá tài sản để thu hồi nợ.
12. Về thi hành án dân sự với bất động sản có sai lệch về diện tích thực tế và diện tích trên Giấy chứng nhận đã cấp
* Khó khăn, vướng mắc:
Trường hợp thi hành án dân sự đối với bất động sản có sai lệch về diện tích giữa thực tế và trên Giấy chứng nhận đã cấp, Cơ quan thi hành án chưa được hướng dẫn cụ thể về việc có phải kê biên cả phần diện tích tăng thêm so với diện tích trên Giấy chứng nhận hay không? trường hợp không kê biên toàn bộ các diện tích trên thực tế thì dẫn đến việc giải quyết vụ việc không triệt để, phát sinh vướng mắc về sau đối với việc xử lý tài sản gắn liền với phần diện tích đất bị tăng thêm.
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị bổ sung quy định cụ thể cách thức xử lý trong trường hợp này một cách thống nhất, bảo đảm quyền lợi của Người được thi hành án.
13. Về ủy quyền khiếu nại trong thi hành án dân sự
* Khó khăn, vướng mắc:
Trong quá trình một số tổ chức tín dụng thực hiện quyền khiếu nại trong công tác thi hành án, một số Chi cục thi hành án dân sự đã có văn bản trả lại đơn khiếu nại với lý do Giấy ủy quyền thực hiện khiếu nại chưa được công chứng và chứng thực theo quy định tại Nghị định 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Khiếu nại 2011.
Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại về thi hành án ưu tiên thực hiện theo Luật Thi hành án dân sự (luật chuyên ngành) và theo nguyên tắc quy định tại Điều 3 Luật Khiếu nại 2011: “5. Trường hợp luật khác có quy định khác về khiếu nại và giải quyết khiếu nại thì áp dụng theo quy định của luật đó”.
Theo Luật thi hành án dân sự và thực tế thực hiện việc yêu cầu thi hành án dân sự đã thực hiện việc ủy quyền theo đúng quy định tại Điều 31 khoản 2 điểm g (Trường hợp là pháp nhân thì phải có chữ ký của người đại diện hợp pháp và đóng dấu của pháp nhân, nếu có). Để đảm bảo rõ ràng và áp dụng thống nhất quy định pháp luật trong việc ủy quyền khiếu nại về thi hành án, cần có quy định rõ việc đại diện và ủy quyền trong công tác thi hành án dân sự (bao gồm cả trong việc khiếu nại về thi hành án).
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 31 (và các VBQPPL có liên quan) theo hướng ủy quyền của các pháp nhân thì không bắt buộc phải công chứng, chứng thực.
14. Về thứ tự ưu tiên xử lý trong vụ việc có nhiều tài sản phải xử lý để thu hồi nợ
* Khó khăn, vướng mắc:
Trên thực tế, trong trường hợp tổng giá trị TSĐB dự kiến tương đương hoặc lớn hơn nghĩa vụ thi hành án thì cơ quan thi hành án thường yêu cầu ngân hàng phải xác định phạm vi bảo đảm cụ thể của từng tài sản; hoặc phân chia tỷ lệ phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm của mỗi tài sản thì Chấp hành viên mới tiến hành xử lý tài sản hoặc thực hiện thanh toán cho tổ chức tín dụng.
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị bổ sung quy định trong trường hợp tổ chức tín dụng nhận nhiều tài sản để bảo đảm cho cùng nghĩa vụ thì khi xử lý tài sản, tổ chức tín dụng có quyền: Yêu cầu xử lý đối với bất kỳ một/một số tài sản bảo đảm nào theo phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm đã được các bên thỏa thuận cho đến khi thanh toán xong toàn bộ nghĩa vụ thi hành án; Yêu cầu xử lý đồng thời tất cả tài sản bảo đảm, sau khi thanh toán xong toàn bộ nghĩa vụ thi hành án thì phần còn lại được trả lại cho các bên bảo đảm theo tỷ lệ giá trị tài sản bảo đảm tại thời điểm xử lý.
15. Về chậm trễ trong quá trình thi hành án
(i) Khó khăn, vướng mắc:
Thực tế, người phải thi hành án thực hiện một số hành vi gây khó khăn cho cơ quan thi hành án, người được thi hành án nhằm trì hoãn việc kê biên, bán đấu giá tài sản, cụ thể như: Người phải thi hành án là chủ tài sản có đơn khiếu nại, đề nghị Tòa án, Viện kiểm sát cho hoãn thi hành án; người phải thi hành án là chủ tài sản cố tình tạo tranh chấp dẫn đến việc cơ quan thi hành án dân sự phải hướng dẫn các đương sự khởi kiện vụ án dân sự để giải quyết tranh chấp và việc thi hành án bị tạm hoãn. Trong các trường hợp này, việc kê biên tài sản sẽ phải tạm hoãn, ảnh hưởng đến tiến độ kê biên bán đấu giá tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho tổ chức tín dụng.
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị bổ sung quy định cụ thể các căn cứ trì hoãn việc kê biên, tránh trường hợp cơ quan thi hành án tạm hoãn việc kê biên với các lí do không chính đáng, ảnh hưởng đến tiến độ kê biên bán đấu giá tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho tổ chức tín dụng.
(ii) Khó khăn, vướng mắc:
Theo quy định tại Điều 46 Luật thi hành án dân sự, sau khi hết thời gian tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không thực hiện thi hành án, thì cơ quan thi hành án phải ra Quyết định cưỡng chế thi hành án, nhưng phần lớn các cơ quan thi hành án không ra Quyết định cưỡng chế ngay mà thường kéo dài nhiều tháng, nhiều năm dù người được thi hành án đã có nhiều đơn kiến nghị. Khi ra quyết định cưỡng chế thì trong quyết định lại thường không có thời gian thực hiện việc cưỡng chế cụ thể. Do vậy, dẫn đến tình trạng mặc dù có quyết định cưỡng chế nhưng sau đó cơ quan thi hành án không tổ chức thực hiện việc cưỡng chế trên thực tế thì người được thi hành án cũng không có căn cứ pháp lý để khiếu nại hoặc đề nghị thực hiện việc cưỡng chế theo quyết định.
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị bổ sung quy định về thời hạn; trường hợp cần phải xác minh/không cần xác minh tài sản thi hành án và điều kiện thi hành án, thời điểm kết thúc việc xác minh tài sản/điều kiện thi hành án; quy định về các thời hạn tổ chức cưỡng chế, kê biên sau khi có quyết định cưỡng chế, kê biên đối với tài sản phải thi hành án; thời hạn tổ chức cưỡng chế bàn giao tài sản cho người mua trúng đấu giá/người được thi hành án nhận tài sản trừ vào tiền được thi hành án.
(iii) Khó khăn, vướng mắc:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, thời gian tự nguyện thi hành án, thời điểm kê biên tài sản, xác minh điều kiện thi hành án, định giá/bán đấu giá tài sản, bàn giao tài sản cho người trúng đấu giá, gửi các thông báo/quyết định về thi hành án cho đương sự... đã được quy định rõ. Tuy nhiên thực tế, có trường hợp Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự không thực hiện theo đúng thời hạn đã quy định. Điều này làm chậm quá trình giải quyết việc yêu cầu thi hành án để xử lý thu hồi nợ của tổ chức tín dụng, ảnh hưởng trực tiếp đến công tác xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng.
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị bổ sung quy định về chế tài xử phạt/kỷ luật/xử lý vi phạm đối với vi phạm trong các trường hợp Chấp hành viên chậm tổ chức thi hành vụ việc, chậm giao tài sản và chậm thanh toán tiền cho người được thi hành án, nhằm tăng trách nhiệm và ý thức tuân thủ đối với cán bộ, tổ chức có liên quan. Ngoài ra, cần ban hành hướng dẫn, quy định cụ thể có liên quan nhằm tăng cường hơn nữa vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hiện giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức có liên quan trong công tác thi hành án dân sự,…
(iv) Khó khăn, vướng mắc:
Việc phối hợp giữa Cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan có thẩm quyền gặp nhiều khó khăn trong công tác bảo vệ hội đồng cưỡng chế giao tài sản cho người được thi hành án hoặc người mua trúng đấu giá tài sản. Điều này dẫn đến tình trạng thời gian cưỡng chế giao tài sản cho người được thi hành án hoặc người mua trúng đấu giá tài sản bị kéo dài.
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị xây dựng cơ chế phối hợp giữa Cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan nhà nước liên quan trong việc phối hợp xác minh tài sản bảo đảm thi hành án và cưỡng chế giao tài sản.
16. Về hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử thi hành án
* Khó khăn, vướng mắc:
Việc thi hành án dân sự được thực hiện trên cơ sở nội dung của bản án, quyết định và việc chuyển giao các văn bản tố tụng, tài liệu, giấy tờ giữa các cơ quan liên quan trực tiếp. Trong khi đó, việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tài liệu, giấy tờ giữa các cơ quan này do người trong các cơ quan đó thực hiện hoặc sử dụng dịch vụ thừa phát lại, tuy nhiên việc chuyển giao thủ công không thể nhanh chóng, đơn giản, dễ dàng và kịp thời bằng việc sử dụng các phương tiện điện tử.
* Kiến nghị, đề xuất:
Đề nghị bổ sung quy định về việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử chung giữa Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan thi hành án dân sự và bổ sung quy định về hình thức cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tài liệu, giấy tờ thông qua phương tiện điện tử.
Hoàng Thu Thủy - Vụ NV1