Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, lĩnh vực thi hành án dân sự sẽ gặp nhiều tác động, cả thuận lợi và khó khăn, thử thách. Do đó, việc nghiên cứu về sự tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam càng trở nên cần thiết và rất quan trọng.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là kỷ nguyên công nghiệp lớn lần thứ tư kể từ cuộc cách mạng công nghiệp lần đầu tiên diễn ra từ thế kỷ XVIII, trong lịch sử, con người đã chứng kiến 3 cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lớn: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (từ năm 1784) diễn ra khi loài người phát minh động cơ hơi nước, tác động trực tiếp đến các ngành nghề như dệt may, chế tạo cơ khí, giao thông vận tải; động cơ hơi nước được đưa vào ôtô, tàu hỏa, tàu thủy, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai (từ năm 1870) đến khi loài người phát minh ra động cơ điện, mang lại cuộc sống văn minh, năng suất tăng nhiều lần so với động cơ hơi nước. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba (từ năm 1969) xuất hiện khi con người phát minh ra bóng bán dẫn, điện tử, kết nối thế giới liên lạc được với nhau. Vệ tinh, máy bay, máy tính, điện thoại, Internet - những công nghệ hiện nay chúng ta đang thụ hưởng là thành quả của cuộc cách mạng này.
Thế giới hiện nay đang ở cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (hay còn gọi là cuộc Cách mạng 4.0). Cách mạng công nghiệp 4.0 là sự kết hợp các công nghệ giúp xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học. Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động mạnh mẽ, toàn diện và sâu sắc trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đã khiến hầu hết các quốc gia trên thế giới phải điều chỉnh, định hướng lại chiến lược phát triển, hướng trọng tâm đầu tư vào khoa học - công nghệ, đồng thời có chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.
Sự biến đổi văn hóa, lối sống diễn ra do nhiều tác động khác nhau trong mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử. Trong thời đại cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, khoảng cách về không gian địa lý được thu hẹp tối đa. Điều đó đồng nghĩa với việc mối giao lưu, quan hệ giữa con người với con người được mở rộng. Các cộng đồng, các dân tộc, các nền văn hóa xích lại gần nhau hơn. Trong mỗi cộng đồng, văn hóa, lối sống của các cá nhân cũng chịu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Sự đan xen này trực tiếp góp phần thúc đẩy sự đa dạng văn hóa, nhưng cũng làm phát sinh tình trạng văn hóa lai căng khiến việc bảo vệ bản sắc trong đa dạng văn hóa trở thành nhiệm vụ không dễ dàng của mọi quốc gia, dân tộc.
Trong mọi lĩnh vực, các cuộc cách mạng đều bao hàm sự thay đổi cơ bản về chất, có tính đột biến, sâu sắc và triệt để, theo hướng tiến bộ. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm cho tri thức được vốn hóa, thâm nhập sâu vào nền sản xuất vật chất, vào mọi “ngõ ngách” của đời sống con người, làm thay đổi lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Quá trình này diễn ra nhanh chóng trong thời gian ngắn và làm biến đổi nhiều đặc điểm văn hóa, lối sống của con người ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Mặt khác, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra trên toàn cầu rất mạnh mẽ, chưa ai có thể lường trước được thế giới sẽ thay đổi như thế nào, bởi quy mô, phạm vi và tính phức tạp vô cùng lớn, đòi hỏi các quốc gia phải chủ động hơn nữa trước bối cảnh biến đổi mạnh mẽ của kỷ nguyên công nghiệp thông minh và công nghệ hiện đại. Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển với tốc độ cấp số nhân, trong đó nhiều nội dung của cuộc cách mạng này cũng chưa hình dung được hết, đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề tác động tới mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực lao động và việc làm.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo ra nhiều đột phá về công nghệ mới trong các lĩnh vực như sản xuất trí thông minh nhân tạo, chế tạo rô-bốt, phát triển mạng Internet, công nghệ in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học. Theo đó các công nghệ mới ra đời sẽ là sự liên kết các lĩnh vực lý - sinh; cơ - điện tử, v.v… hình thành các ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành nghề có sự liên quan đến tương tác giữa con người với máy móc.
Ngày nay, các robot đang được sử dụng nhiều hơn ở tất cả các lĩnh vực từ nông nghiệp cho đến chăm sóc người bệnh. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ robot làm cho sự hợp tác giữa người và máy móc sớm trở thành hiện thực. Hơn nữa, do các tiến bộ công nghệ khác, robot đang trở nên thích nghi và linh hoạt hơn, với thiết kế cấu trúc và chức năng của nó được lấy cảm hứng từ các cấu trúc sinh học phức tạp. Siêu tự động hóa cộng với trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ khiến việc tự động hóa phát triển mạnh hơn, thậm chí với những kỹ năng trước đây chỉ có con người sở hữu. Siêu tự động hóa cực cao có thể cho phép sự tham gia của robot và các cỗ máy có trí thông minh nhân tạo để phân tích kết quả, đưa ra các quyết định phức tạp và ứng dụng vào hoạt động sản xuất.
Cách mạng khoa học - công nghệ là một trong những đặc điểm nổi bật của thế giới đương đại. Các biến đổi của đời sống xã hội và con người đều gắn liền với cuộc cách mạng này. Tốc độ phát triển con người và phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia, cũng như của các khu vực và trên toàn thế giới, phụ thuộc ngày càng nhiều vào sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ. Nó chi phối ngày càng nhiều, ngày càng mạnh các biến đổi của đời sống xã hội và của con người (tuổi thọ, bệnh tật, sức khỏe, làm đẹp, v.v…) trong mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi toàn cầu. Sức mạnh quân sự, quy mô và tốc độ của các cuộc chiến tranh, sức mạnh tấn công và phòng thủ của các quốc gia phụ thuộc ngày càng lớn vào cách mạng khoa học công nghệ. Cuộc cách mạng đó quyết định các chiều hướng phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, quan hệ quốc tế, giáo dục đào tạo, y tế và việc làm, v.v… ở quy mô toàn cầu cũng như trong từng quốc gia riêng lẻ.
Cách mạng khoa học - công nghệ cũng tác động ngày càng mạnh mẽ đến những vấn đề toàn cầu. Một mặt, nó là công cụ, phương tiện hữu hiệu để có thể giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện ngày một thêm căng thẳng đối với nhân loại. Mặt khác, nó cũng lại làm tăng thêm mức độ căng thẳng của một số vấn đề toàn cầu, thậm chí theo một số học giả, có thể làm xuất hiện thêm những vấn đề toàn cầu mới. Những hậu quả tiêu cực do việc sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại (cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng sinh thái, vũ khí hủy diệt hàng loạt, v.v…) đe dọa sự tồn vong và tương lai của mỗi con người và nhân loại nói chung.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; nó đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đất nước ta. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thi hành án dân sự tại Việt Nam
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự là một trong những nội dung quan trọng đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Trên tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung qua năm 2014, 2018, 2020, 2022) đã quy định về cách thức tổ chức thi hành bản án, quyết định dân sự để vừa bảo đảm giữ gìn, bảo vệ kỷ cương, pháp chế xã hội chủ nghĩa, vừa hướng đến mục tiêu quan trọng là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Hiện nay, thi hành án dân sự “là hoạt động quan trọng để các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án và các cơ quan tài phán được thực hiện trên thực tế, góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, bảo đảm công bằng, thực thi công lý và củng cố lòng tin của người dân”. Như vậy, về bản chất, “thi hành án dân sự là quá trình thực hiện bản án, quyết định dân sự (bao gồm các lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình) của tòa án hoặc các chủ thể có thẩm quyền ra các phán quyết khác”.
Trong giai đoạn phát triển hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến cho Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển, trong đó, đặc biệt các thành tựu của khoa học - công nghệ đã tác động và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội. Nghiên cứu cho thấy, tại Việt Nam, kể từ khi Internet xuất hiện, hình thành một môi trường đặc biệt - môi trường kỹ thuật số. Nhờ vào các thành tựu của cuộc Cách mạng 4.0, hầu hết các lĩnh vực liên quan đến quản lý nhà nước tại Việt Nam nói chung và lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng đã có nhiều thay đổi quan trọng.
Trước đây, tại các cơ quan thi hành án dân sự, việc tổng kết số liệu thi hành án hàng năm và lập các báo cáo thống kê luôn mất khá nhiều công sức, rắc rối, phức tạp và thường chiếm nhiều thời gian. Không những vậy, việc tiến hành thủ công với những cách tính toán cơ học có thể dẫn tới trường hợp xảy ra nhầm lẫn, sai sót, dẫn đến hiệu quả công việc thấp. Đó cũng chính là lý do, việc tổng kết, lập báo cáo được đánh giá là một trong những nhiệm vụ nặng nề, phức tạp của cơ quan thi hành án dân sự. Tuy nhiên, nhờ việc triển khai hệ thống phần mềm công nghệ thông tin, việc lập các báo cáo, thống kê trở nên đơn giản, dễ dàng, thuận tiện và nhanh chóng hơn trước. Về cơ bản, các cán bộ, công chức của cơ quan thi hành án dân sự chỉ cần nhập vào máy tính các số liệu và nhanh chóng có được kết quả với độ chính xác gần như tuyệt đối. Hiệu quả công việc cũng cao hơn trước do hạn chế được sự nhầm lẫn. Cán bộ, công chức của cơ quan thi hành án dân sự đã rút ngắn được khá nhiều thời gian, công sức cho việc lập các báo cáo thống kê, tổng kết; nhờ đó có thêm thời gian, công sức để tập trung giải quyết những nhiệm vụ quan trọng khác của công tác thi hành án dân sự.
Đối với công tác chuyển giao các loại văn bản, tài liệu, giấy tờ, thông báo giữa cơ quan thi hành án dân sự với nhau hay giữa cơ quan thi hành án dân sự với tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan, đơn vị nhà nước khác cũng trở nên đơn giản, nhanh chóng và thuận tiện hơn. Đây là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng đối với tố tụng dân sự và thi hành án dân sự. Tòa án, Viện Kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự có nghĩa vụ cấp, tống đạt hoặc thông báo các văn bản tố tụng cho những người liên quan đến vụ việc dân sự.
Trước đây, việc chuyển giao các loại văn bản, tài liệu, giấy tờ giữa các cơ quan trên đều phải tiến hành thủ công, như gửi qua đường bưu điện, qua nhân viên chuyên vận chuyển các loại công văn giữa các cơ quan, đơn vị. Thế nhưng, giả thiết nếu khoảng cách địa lý quá xa hoặc do có sự cản trở bởi lũ lụt, thiên tai thì việc chuyển giao các loại tài liệu, giấy tờ giữa các cơ quan, đơn vị sẽ rất khó khăn và khó có thể thực hiện nhanh chóng, kịp thời. Trong khi đó, đối với hoạt động tố tụng, cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng đem lại sự thông suốt cho cả quá trình tố tụng, chúng là các mắt xích quan trọng để tiến hành các trình tự tố tụng, chỉ cần các mắt xích đó “lỗi” hoặc “đứt” thì công tác tố tụng bị đình trệ, tắc nghẽn.
Nhờ vào các thành tựu của cách mạng khoa học, công nghệ, việc liên lạc, trao đổi giữa các cơ quan trên diễn ra rất nhanh chóng, đơn giản và luôn có thể thực hiện được. Từ đó, ít nhiều hỗ trợ cho các cơ quan trên đỡ mất thời gian, công sức để tiến hành các hoạt động cấp, tống đạt, thông báo các loại công văn, giấy tờ và tài liệu liên quan đến quá trình xét xử giải quyết tranh chấp và thi hành án dân sự. Bên cạnh đó, hiện nay, chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước là xã hội hóa thi hành án dân sự với sự khôi phục chế định pháp luật về thừa phát lại cũng đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của công tác xét xử giải quyết tranh chấp và thi hành án dân sự. Trong đó, thừa phát lại được quyền tiến hành các hoạt động tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu cho Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự. Khi liên lạc, trao đổi với các cơ quan trên, thừa phát lại cũng rất cần sự hỗ trợ từ các thiết bị công nghệ như máy tính, máy in, điện thoại, Internet, v.v… Do đó, có thể thấy rằng, những thành tựu quan trọng của cách mạng khoa học - công nghệ đã và đang tác động tích cực đến hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam.
Thực hiện chủ trương của Đảng, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước, thời gian qua, Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự, các cơ quan thi hành án dân sự đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp, biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong thi hành án dân sự. Một số kết quả về ứng dụng công nghệ thông tin trong thi hành án dân sự đã đạt được trong thời gian qua, cụ thể là:
Thứ nhất, về hạ tầng kỹ thuật, ở Trung ương: 100% công chức, viên chức của Tổng cục Thi hành án dân sự được trang bị mỗi người 01 máy tính kết nối mạng nội bộ (LAN) và mạng Internet, các phòng làm việc được trang bị một số thiết bị khác phục vụ công tác như máy in, máy fax, máy scan, máy photocopy, điện thoại. Hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin tại Tổng cục Thi hành án dân sự chủ yếu do Cục Công nghệ thông tin - Bộ Tư pháp bảo đảm (hệ thống máy chủ, đường truyền, lưu trữ, an ninh, an toàn thông tin). Tại các cơ quan thi hành án dân sự địa phương: công chức, người lao động được trang bị tương đối đầy đủ các trang thiết bị tin học phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ, đạt yêu cầu 01 máy tính/01người; các Cục Thi hành án dân sự và Chi cục Thi hành án dân sự đã thiết lập hệ thống mạng nội bộ (LAN), kết nối mạng Internet. Hàng năm, Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự đều chỉ đạo các đơn vị thuộc Tổng cục, Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương rà soát, trang bị máy tính và thiết bị tin học cho công chức, viên chức, người lao động trong Hệ thống.
Thứ hai, về một số ứng dụng phục vụ người dân doanh nghiệp: nâng cấp, phát triển Trang thông tin điện tử thi hành án dân sự thành Cổng thông tin điện tử Tổng cục Thi hành án dân sự. Xây dựng, triển khai Trang thông tin điện tử cho 63 Cục Thi hành án dân sự địa phương. Triển khai cơ chế một cửa tại các cơ quan thi hành án dân sự địa phương. Đã triển khai thí điểm phần mềm Hỗ trợ trực tuyến thi hành án dân sự. Thực hiện đăng tải công khai danh sách người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành và thông tin về việc không chấp hành án hành chính, quyết định giải quyết khiếu nại lần hai trên Cổng/Trang Thông tin điện tử thi hành án dân sự theo quy định.
Thứ ba, về quá trình liên lạc, trao đổi giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến quá trình tổ chức thi hành án: như đã biết, thi hành án dân sự thường là quá trình khó khăn, rắc rối, phức tạp và luôn có sự liên quan đến khá nhiều chủ thể. Nói cách khác, đó không chỉ là quá trình thực hiện nội dung của bản án, quyết định liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà còn có sự liên quan đến rất nhiều chủ thể, như tổ chức tín dụng nơi trực tiếp quản lý tài khoản của người phải thi hành án hoặc công ty tài chính, cửa hàng cầm đồ, người đang trực tiếp nắm giữ tài sản của người phải thi hành án, cơ quan chi trả tiền lương, tiền lương hưu, v.v… Do đó, để có thể thi hành theo đúng nội dung của bản án, quyết định, cơ quan thi hành án dân sự luôn cần có sự chung tay, phối hợp, hỗ trợ từ rất nhiều chủ thể liên quan đến thi hành án.
Trước đây, quá trình liên lạc, trao đổi giữa cơ quan thi hành án với các chủ thể trên khá mất thời gian vì chủ yếu được tiến hành qua việc các chấp hành viên ra các quyết định hay các yêu cầu gửi đến các chủ thể có liên quan đến thi hành án. Ngoài ra, có những trường hợp khi cơ quan thi hành án dân sự cần khẩn trương, nhanh chóng liên lạc với các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của người phải thi hành án để xác minh thu thập thông tin nhằm có đủ cơ sở cần thiết, từ đó, quyết định áp dụng các biện pháp bảo đảm như phong tỏa tài khoản hay tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, việc liên lạc, trao đổi diễn ra khó khăn, chậm chễ và có thể dẫn tới việc người phải thi hành án tẩu tán các tài sản trước khi bị cơ quan thi hành án dân sự áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
Hiện nay, nhờ vào việc áp dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, cơ quan thi hành án dân sự có thể dễ dàng, nhanh chóng liên lạc, trao đổi với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến thi hành án, để từ đó, kịp thời có các biện pháp ngăn chặn người phải thi hành án che dấu, tẩu tán tài sản. Nhiều trường hợp thông qua trao đổi bằng điện thoại, thư điện tử (Email) và các phương thức truyền tin phổ biến, như chat qua các trang mạng xã hội thông dụng là Zalo, Viber, Facebook mà cán bộ, công chức của cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến thi hành án đã kịp thời tương tác, trao đổi và truyền gửi cho nhau những thông tin và tài liệu quan trọng, cần thiết, như số dư trong tài khoản hay các bức ảnh, video về tài sản của người phải thi hành án. So với việc các cán bộ, công chức của cơ quan thi hành án dân sự phải tự mình đi đến tận nơi để xác minh hay thu thập thông tin thì nhờ các thiết bị công nghệ đã giúp quá trình ấy diễn ra nhanh chóng, dễ dàng, ít tốn kém cả về chi phí, thời gian và công sức. Từ đó, hiệu quả của công tác thi hành án được nâng cao.
Tuy nhiên, mặc dù cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang đến rất nhiều ưu thế và cơ hội thuận lợi cho ngành tư pháp nói chung và cơ quan thi hành án dân sự nói riêng nhưng cũng gây ra những khó khăn, thử thách đối với hoạt động thi hành án dân sự. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự tiến bộ của khoa học - công nghệ trong kỷ nguyên số cũng sẽ trở thành “con dao hai lưỡi” nếu chúng ta không kịp thời quản lý, ngăn chặn các hành vi độc hại và vi phạm pháp luật. Điển hình là, tội phạm trong lĩnh vực công nghệ cao hoặc sử dụng công nghệ cao ngày càng phổ biến tại Việt Nam. Nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự là vẫn phải thi hành phần quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của tòa án. Do đó, khi thực thi các bản án, quyết định liên quan đến tội phạm công nghệ cao hoặc sử dụng công nghệ cao thì cơ quan thi hành án dân sự luôn gặp nhiều khó khăn, phức tạp và trách nhiệm rất nặng nề. Bởi lẽ, để xác minh các nguồn tài sản, tài khoản của tội phạm công nghệ cao đòi hỏi cần có sự hiểu biết sâu sắc về các thiết bị công nghệ cũng như cách thức vận hành của chúng vì các chủ thể bị xử phạt luôn tìm mọi cách tẩu tán, che giấu các thông tin xác thực về tài khoản, tài sản. Mặt khác, đối với các vụ, việc thi hành án này thường có sự liên quan đến rất nhiều chủ thể và cơ quan thi hành án dân sự luôn cần có sự hỗ trợ, phối hợp từ cơ quan phòng, chống tội phạm công nghệ cao, cơ quan thuế, hải quan.
Tóm lại, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động và ảnh hưởng rất lớn đến công tác thi hành án dân sự tại Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển khoa học - công nghệ là xu hướng chung của xã hội văn minh, hiện đại và Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế đó. Vì vậy, cần kịp thời có các giải pháp ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật, cũng như sử dụng các thành quả của khoa học - công nghệ để phục vụ cho quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Có như vậy, hiệu quả của thi hành án dân sự mới được nâng cao và đáp ứng công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đang hướng đến.
Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả hiệu quả công tác thi hành án dân sự tại Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu là chủ trương phát triển đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển hiện nay. Cùng với hội nhập về mặt kinh tế, hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng cũng đã và đang tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng. Chính vì vậy, để cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hỗ trợ đắc lực và nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, đồng thời hạn chế các tác động tiêu cực, cần thực hiện các giải pháp sau:
Một là, cần khẩn trương xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu liên quan đến việc chuyển giao các bản án, quyết định, tài liệu, giấy tờ giữa Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và cơ quan thi hành án dân sự. Sở dĩ cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu kết nối chung giữa ba cơ quan này bởi đây đều là các cơ quan tư pháp và trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử và thi hành án dân sự. Đây là giải pháp hiệu quả mang lại đóng góp lâu dài và góp phần hiện đại hóa công tác chuyển giao các tài liệu, văn bản, giấy tờ giữa Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và cơ quan thi hành án dân sự. Đồng thời, còn phù hợp với chủ trương phát triển công dân số, xã hội số và Chính phủ điện tử tại Việt Nam.
Hai là, về quan điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin: Cần chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là yêu cầu tất yếu khách quan, là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nội hàm, bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 để quyết tâm đổi mới tư duy và hành động, coi đó là giải pháp đột phá với bước đi và lộ trình phù hợp. Nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội để nâng cao năng suất lao động, hiệu lực, hiệu quả quản lý thông qua nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu tiên tiến của cuộc cách mạng vào công tác của ngành, lĩnh vực. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế cho phù hợp. Cần có cách tiếp cận cởi mở, sáng tạo, cho thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra, tạo mọi thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, phát huy tối đa các nguồn lực, bảo đảm đủ nguồn lực cho việc chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.
Ba là, hoàn thiện thể chế, quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong thi hành án dân sự: Xây dựng, ban hành các văn bản, đề án triển khai thực hiện các nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin trong thi hành án dân sự phù hợp với các chủ trương, chính sách về ứng dụng công nghệ thông tin của Đảng, Chính phủ trong bối cảnh tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Xây dựng và ban hành các quy chế, quy trình, quy định, hướng dẫn về ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống thi hành án dân sự. Hoàn thiện các tài liệu hướng dẫn sử dụng các phần mềm, các chính sách về dữ liệu, quản trị dữ liệu, tạo thuận lợi cho việc tạo dựng, kết nối, chia sẻ và khai thác dữ liệu bảo đảm an toàn, an ninh mạng.
Bốn là, cần xây dựng hướng dẫn về việc trao đổi, liên hệ, đưa ra các yêu cầu trong quá trình tổ chức thi hành án giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến thi hành án.
Việc sử dụng các tiện ích của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư giúp cho việc liên lạc, trao đổi giữa cơ quan thi hành án dân sự với các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến thi hành án diễn ra rất nhanh chóng, đơn giản, dễ dàng và ít tốn kém. Thậm chí, không ít trường hợp, còn giúp cho cơ quan thi hành án dân sự có thể nắm bắt, thu nhận được những thông tin quan trọng và cần thiết, nhờ đó, quá trình tổ chức thi hành án diễn ra thuận lợi, an toàn, hiệu quả. Tuy nhiên, vấn đề bất cập là vẫn chưa có hướng dẫn hay quy định về việc cơ quan thi hành án dân sự có thể yêu cầu đến các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến thi hành án thông qua các phương tiện điện tử, như gọi điện thoại, trao đổi thông tin qua Internet (chat), thư điện tử (Email), v.v… Có thể do đây là các cách thức trao đổi mang tính chất cá nhân, có nhiều rủi ro hoặc còn quá mới lạ, vậy nên, pháp luật thi hành án dân sự của Việt Nam chưa kịp thời ghi nhận và có sự điều chỉnh.
Năm là, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và nâng cao trình độ khoa học - công nghệ cho đội ngũ cán bộ, công chức chịu trách nhiệm tổ chức thi hành án dân sự. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang mang đến các tác động, ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực đối với hoạt động thi hành án dân sự thì càng cần quán triệt và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cũng như sự quản lý của Nhà nước. Nói cách khác, hoạt động thi hành án dân sự chỉ có thể thành công nếu như đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi các cán bộ, công chức của ngành thi hành án dân sự phải không ngừng nỗ lực cố gắng, trau dồi về kỹ năng, kinh nghiệm, nhất là phải liên tục cập nhật và nâng cao trình độ hiểu biết về công nghệ thông tin. Tổng cục Thi hành án dân sự cần có những chương trình, kế hoạch được nghiên cứu xây dựng bài bản, khoa học, hiện đại để có thể cập nhật, bồi dưỡng và nâng cao khả năng sử dụng các thiết bị công nghệ cho đội ngũ cán bộ, công chức thuộc ngành mình phụ trách. Ngoài ra, cũng cần có chủ trương tuyển dụng các chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ thông tin để kịp thời hỗ trợ cho các Chấp hành viên trong quá trình liên lạc, trao đổi, đặt ra các yêu cầu hay xác minh điều kiện thi hành án. Có như vậy, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự tại Việt Nam mới được tăng cường và quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự mới được bảo vệ./.
Trần Thị Thanh Trang - Vụ Tổ chức cán bộ