Một số lưu ý trong công tác bồi thường nhà nước và những yêu cầu đặt ra đối với hệ thống thi hành án dân sự (Phần 2)

31/10/2024


2.4. Về cấp phát kinh phí bồi thường và chi trả tiền bồi thường
Theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, sau khi hoàn thiện hồ sơ đề nghị cấp kinh phí bồi thường, Cục và Chi cục THADS có trách nhiệm giải quyết bồi thường gửi hồ sơ đề nghị cấp kinh phí bồi thường đến Bộ Tài chính: “...Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày quyết định giải quyết bồi thường hoặc bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường có hiệu lực pháp luật, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại phải gửi hồ sơ đề nghị cấp kinh phí bồi thường đến cơ quan tài chính có thẩm quyền(khoản 1 Điều 62 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017).
- Yêu cầu đặt ra đối với hệ thống THADS
Một là, đối với công chức được cử giải quyết bồi thường:
+ Nghiên cứu hồ sơ vụ việc yêu cầu bồi thường cặn kẽ và thấu đáo để xác định đầy đủ, chính xác các căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của nhà nước theo quy định tại Điều 7 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017.
+ Nghiên cứu kỹ các quy định về thủ tục giải quyết bồi thường tại cơ quan thi hành án dân sự theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 để tham mưu lãnh đạo cơ quan thi hành án dân sự giải quyết bồi thường chặt chẽ, đúng trình tự.
Hai là, đối với cơ quan thi hành án dân sự:
+ Quan tâm tới việc cử công chức theo đúng quy định tại điểm b khoản 3 Điều 43 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, đặc biệt chọn người có kinh nghiệm về chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực thi hành án dân sự để có đánh giá chính xác về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ và thiệt hại của người yêu cầu bồi thường.
+ Cần chủ động tranh thủ sự phối hợp với các cơ quan có liên quan (đặc biệt là cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước, cơ quan tài chính có thẩm quyền) từ giai đoạn xác minh thiệt hại, thương lượng giải quyết bồi thường theo quy định tại Điều 45, Điều 46 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 để việc giải quyết bồi thường chính xác, tránh thiệt hại cho ngân sách nhà nước.
3. Một số lưu ý khi thực hiện giải quyết yêu cầu bồi thường
3.1. Trong vấn đề lựa chọn cơ chế giải quyết yêu cầu bồi thường phát sinh tại cơ quan THADS
Việc giải quyết vụ việc phát sinh trách nhiệm bồi thường theo trình tự, thủ tục của Luật TNBTCNN năm 2017 sẽ tạo thuận lợi cho cơ quan THADS là cơ quan quản lý người thi hành công vụ gây ra lỗi, cũng như là cơ quan giải quyết yêu cầu bồi thường và người bị thiệt hại. Ngay sau khi có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong hoạt động THADS, người bị thiệt hại có thể chọn cơ chế giải quyết bồi thường tại cơ quan THADS hoặc Tòa án. Khi Quyết định giải quyết bồi thường hoặc bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì trong thời hạn 02 ngày cơ quan THADS trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại phải lập và gửi hồ sơ xin cấp kinh phí đối với toàn bộ số tiền được ghi nhận tại Quyết định giải quyết bồi thường hoặc tuyên trong bản án, quyết định.
Tuy nhiên, nếu người bị thiệt hại khởi kiện yêu cầu bồi thường tại Tòa án trong trường hợp chưa có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, thì sau khi Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật sẽ được giải quyết theo thủ tục BĐTC. Theo đó, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, cơ quan, tổ chức phải thi hành án thuộc diện đối tượng được đảm bảo tài chính để thi hành án có trách nhiệm áp dụng các biện pháp tài chính như:  (1) Yêu cầu người có lỗi thực hiện nghĩa vụ thi hành án; (2) Sử dụng khoản kinh phí tiết kiệm được từ nguồn kinh phí tự chủ theo quy định. Sau khi cơ quan, tổ chức phải thi hành án đã thực hiện 2 bước nêu trên và không có khả năng áp dụng các biện pháp tài chính được theo quy định Điều 2 Thông tư liên tịch số 07/2016/TTLT-BTP-BTC ngày 10/6/2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính thì mới được lập hồ sơ xin cấp kinh phí BĐTC. Do đó, có thể thấy quy trình BĐTC mất rất nhiều thời gian, có thể kéo dài hơn so với các vụ việc được giải quyết theo trình tự BTNN.
3.2. Trong vấn đề phạm vi trách nhiệm BTNN trong hoạt động THADS
Trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu Thủ trưởng, Chấp hành viên cơ quan THADS có các hành vi ra hoặc không ra các quyết định về thi hành án trái pháp luật; tổ chức hoặc không tổ chức thi hành các quyết định về thi hành án trái pháp luật mà gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của nhà nước theo quy định tại Điều 21 Luật TNBTCNN năm 2017. Từ đó, có thể thấy phạm vi trách nhiệm bồi thường được mở rộng nên nguy cơ phát sinh phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước của cơ quan THADS theo Luật TNBTCNN năm 2017 rất rộng, bao trùm toàn bộ quá trình tác nghiệp, tổ chức thi hành án của Chấp hành viên, chưa có sự phân định lỗi của các cơ quan chức năng có liên quan.
 Ví dụ: trong một số trường hợp: Chấp hành viên tổ chức bán đấu giá tài sản dựa trên kết quả xác minh là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được UBND cấp, căn cứ trên một số văn bản đã được cơ quan có thẩm quyền công chứng hoặc trong quá trình bán đấu giá tài sản vi phạm một số thủ tục về thông báo, niêm yết, tổ chức bán đấu giá, sau khi bán đấu giá người phải thi hành án chống đối quyết liệt dẫn đến không giao được tài sản,...Tuy nhiên, khi người mua trúng đấu giá khởi kiện yêu cầu bồi thường về việc chậm giao tài sản thì Tòa án các cấp thường tuyên lỗi hoàn toàn thuộc về cơ quan THADS.
Do đó, đề nghị Cục trưởng Cục THADS có trách nhiệm chỉ đạo và hỗ trợ các Chi cục THADS trực thuộc trong việc việc tham gia tố tụng giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước theo triệu tập của Tòa án; khi được triệu tập tham gia tố tụng trong các vụ án giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước, phải tập trung chuẩn bị kỹ lưỡng về nội dung, cử người có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng để tham gia hiệu quả tại Tòa án. Trường hợp nếu vụ việc phức tạp, cơ quan THADS có trách nhiệm bồi thường phải báo cáo cơ quan quản lý cấp trên và Tổng cục THADS biết để kịp thời chỉ đạo.
3.3. Trong vấn đề xác định thiệt hại được bồi thường trong hoạt động THADS
Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung thêm các khoản phải bồi thường và các loại thiệt hại được bồi thường, cụ thể:
- Khoản thiệt hại do tài sản bị xâm phạm (Điều 23) với nhiều loại thiệt hại như: tài sản đã bị phát mại, bị mất; tài sản bị hư hỏng; thiệt hại phát sinh do việc không sử dụng, khai thác tài sản; các khoản tiền đã nộp vào ngân sách nhà nước theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các khoản tiền bị tịch thu, thi hành án, khoản tiền đã đặt để bảo đảm theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền; tiền phạt do vi phạm nghĩa vụ trong giao dịch dân sự, kinh tế do không thể thực hiện được các giao dịch dân sự, kinh tế đã có hiệu lực; phần thiệt hại do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết.
- Khoản thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút được lượng hóa cụ thể tùy theo đối tượng là cá nhân hay tổ chức.
- Chi phí hợp lý khác như thuê phòng nghỉ, chi phí đi lại, in ấn tài liệu, gửi đơn thư trong quá trình khiếu nại, tố cáo, chi phí thuê người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại (điểm a khoản 1, khoản 2, khoản 4 Điều 28).
Việc bổ sung thêm các khoản được bồi thường nói trên bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại, tuy nhiên, số tiền ngân sách nhà nước phải bỏ ra để chi trả bồi thường có nguy cơ tăng cao hơn trước. Điều này đồng nghĩa với việc trách nhiệm đặt ra đối với công chức, cơ quan, đơn vị trong bộ máy nhà nước nói chung và công chức, cơ quan THADS nói riêng trong thực thi công vụ sẽ lớn hơn.
Do đó, trong quá trình giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại của đương sự, giai đoạn thương lượng cơ quan THADS cần quan tâm tới việc tiếp xúc, tiếp công dân để kịp thời nắm được tâm tư, nguyện vọng cùng những thông tin phản hồi, kiến nghị, góp ý của nhân dân. Giai đoạn xác minh cần tập trung nghiên cứu, tính toán các biện pháp để giảm thiểu tối đa khoản tiền nhà nước phải bồi thường trong trường hợp việc bồi thường là không thể tránh khỏi (ví dụ: Để hạn chế các thiệt hại quy định tại các khoản 3,4,5 Điều 23 Luật TNBTCNN năm 2017, cơ quan THADS cần nhanh chóng phát hiện và kịp thời khắc phục hậu quả vì theo quy định tại khoản 3 Điều 22 Luật TNBTCNN năm 2017, khoảng thời gian làm căn cứ xác định thiệt hại được bồi thường quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 23 được tính từ ngày phát sinh thiệt hại thực tế cho đến khi chấm dứt thiệt hại đó).
3.4. Trong vấn đề giải quyết khiếu nại, xử lý kỷ luật người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật
- Quá trình xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan THADS cần hết sức thận trọng, bảo đảm chính xác khi xác định hành vi ra hoặc không ra các quyết định về thi hành án nào đó là trái pháp luật; tổ chức hoặc không tổ chức thi hành các quyết định về thi hành án nào đó là trái pháp luật. Trong trường hợp có căn cứ xác định sai phạm của người thi hành công vụ dẫn đến đương sự có đề nghị giải quyết bồi thường thì theo quy định của pháp luật chấp nhận khiếu nại của đương sự để có căn cứ giải quyết vụ việc theo trình tự BTNN.
- Hiện nay, có một số trường hợp Chấp hành viên gây ra lỗi dẫn đến thiệt hại phải bồi thường số tiền lớn nhưng do cơ quan quản lý người thi hành công vụ gây ra lỗi không kịp thời xử lý trách nhiệm Chấp hành viên dẫn đến hết thời hạn xử lý, kỷ luật. Do đó, các cơ quan THADS địa phương khi có bản án, quyết định giải quyết bồi thường, cơ quan THADS phải xem xét xử lý trách nhiệm đối với người thi hành công vụ gây thiệt hại, tránh tình trạng để hết thời hiệu nên không thể xử lý kỷ luật người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại phải BTNN.
 4. Một số kiến nghị, đề xuất
Từ một số phân tích nêu trên cho thấy, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2018 sẽ đặt ra những yêu cầu, áp lực lớn đối với với cơ quan thi hành án dân sự trong quá trình tổ chức thi hành án gắn với đó là trách nhiệm của Chấp hành viên, Thủ trưởng các cơ quan thi hành án dân sự. Việc thực hiện đúng, chặt chẽ các thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại cơ quan thi hành án dân sự có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm số tiền nhà nước bỏ ra bồi thường chính xác, có căn cứ; hạn chế trách nhiệm của cơ quan giải quyết bồi thường trong việc làm thiệt hại ngân sách bồi thường của nhà nước. Do đó, trong thời gian sắp tới, một số yêu cầu chung đặt ra đối với Chấp hành viên, Thủ trưởng các cơ quan thi hành án dân sự và Tổng cục thi hành án dân sự, cụ thể như sau:
Một là, Tổng cục Thi hành án dân sự với trách nhiệm là cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Cục bồi thường của nhà nước để tham mưu hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 theo hướng khắc phục những bất cập trong pháp luật về bồi thường của nhà nước hiện nay. Tổ chức các Hội nghị rút kinh nghiệm thực tiễn công tác thi hành án dân sự từ góc nhìn của công tác bồi thường của nhà nước, trong đó, lưu ý những sai phạm phổ biến trong thi hành án dân sự làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Tăng cường kiểm tra, theo dõi, đôn đốc giải quyết kịp thời các vụ việc bồi thường của nhà nước phát sinh; tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm các vụ việc bồi thường, nhất là các vụ việc phức tạp, kéo dài trong nhiều năm.
Hai là, đối với Thủ trưởng các cơ quan thi hành án dân sự cần đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong việc xử lý, giải quyết các sai phạm xảy ra tại cơ quan đơn vị, hạn chế tối đa khả năng phát sinh vụ việc bồi thường nhà nước.
Ba là, đối với Chấp hành viên không ngừng nâng cao năng lực, trách nhiệm cá nhân trong quá trình tổ chức thi hành án, bảo đảm tuân thủ trình tự, thủ tục trong quá trình tổ chức thi hành án, nghiêm cấm việc vi phạm những điều Chấp hành viên không được làm theo quy định của Luật thi hành án dân sự. Quá trình tổ chức thi hành án, phải kịp thời báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ đối với những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong từng vụ việc.
Bốn là, cơ quan thi hành án dân sự cần lưu ý, nắm vững thủ tục giải quyết bồi thường, đặc biệt là các quy định về thẩm quyền giải quyết bồi thường; thời hiệu yêu cầu bồi thường; người có quyền yêu cầu bồi thường; hồ sơ yêu cầu bồi thường theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017.
Năm là, tranh thủ sự phối hợp của các cơ quan có liên quan về công tác bồi thường nhà nước, cơ quan tài chính có thẩm quyền trong quá trình xem xét, giải quyết yêu cầu bồi thường.