Quy định pháp luật và một số vấn đề cần lưu ý trong xác minh, kê biên tài sản về cổ phần, cổ phiếu, phần vốn góp (Phần 2)

04/10/2025


2. Một số vấn đề cần lưu ý khi xác minh, kê biên tài sản là cổ phần, cổ phiếu, phần vốn góp
2.1. Xác minh điều kiện thi hành án
2.1.1. Thực hiện các quy định về xác minh điều kiện thi hành án theo quy định của pháp luật
Về cơ sở pháp lý, hiện nay, các nội dung liên quan đến việc xác minh điều kiện thi hành án được quy định ở Điều 44 Luật THADS (được sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2022); Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2020); Điều 3 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 quy định một số vấn đề về thủ tục THADS và phối hợp liên ngành trong THADS. Theo đó:
* Chủ thể xác minh
Trách nhiệm xác minh thuộc về cơ quan thi hành án, mà cụ thể là Chấp hành viên được giao tổ chức thi hành án. Người được thi hành án có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện thi hành án, cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án cho cơ quan THADS.
* Về thời hạn xác minh
- Đối với các trường hợp thông thường: Khoản 1 Điều 44 Luật THADS đã có quy định rõ về thời hạn xác minh, đó là trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến hành xác minh. Thời điểm bắt đầu thực hiện việc xác minh là bất cứ thời điểm nào trong 10 ngày đã nêu trên theo quy định của pháp luật nhưng không bắt buộc phải kết thúc việc xác minh trong 10 ngày đó.
- Đối với trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: Chấp hành viên phải tiến hành xác minh ngay. “Xác minh ngay” được hiểu là phải được Chấp hành viên thực hiện ngay trong ngày được giao tổ chức thi hành vụ việc thông qua các biện pháp như liên hệ với Ủy ban nhân dân, tổ trưởng tổ dân phố, Cơ quan công an hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến hành xác minh. Việc liên hệ này phải thể hiện trong hồ sơ thi hành án thông qua các biên bản xác minh, phiếu yêu cầu cung cấp thông tin hoặc các công văn đề nghị phối hợp, cung cấp thông tin…
* Nội dung xác minh
Tương tự như việc xác minh thông thường khác, cơ quan THADS cần phải xác định chính xác và đầy đủ nội dung xác minh, trong đó cần chú ý làm rõ: nhân thân của người phải thi hành án; điều kiện tài sản của người phải thi hành án; làm rõ quan điểm của chính quyền địa phương; xác minh các điều kiện khác phát sinh trong quá trình xác minh. Trong đó, khi xác minh điều kiện thi hành án đối với người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thì Chấp hành viên cần lưu ý:
- Trực tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản lý vốn, tài sản;
- Xác minh tại cơ quan cấp phép cho doanh nghiệp hoạt động. Theo đó, sau khi sắp xếp tổ chức bộ máy thì việc xác định cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh thực hiện theo quy định của Nghị định 168/2025/NĐ-CP ngày 30/6/2025 về đăng ký doanh nghiệp:
(i) Cơ quan đăng ký kinh doanh thuộc Sở Tài chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp đăng ký doanh nghiệp đối với doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh có địa chỉ tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi địa phương quản lý.
(ii) Ban quản lý khu công nghệ cao cấp đăng ký doanh nghiệp đối với doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh có địa chỉ đặt trong khu công nghệ cao;
(iii) Phòng Kinh tế (đối với xã, đặc khu) hoặc Phòng Kinh tế, Hạ tầng và Đô thị (đối với phường và đặc khu Phú Quốc) thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã (Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp xã) có thẩm quyền đăng ký hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở xác minh tại cơ quan có thẩm quyền để xác định được ngành nghề hoạt động, người chịu trách nhiệm trước pháp luật của doanh nghiệp, các thay đổi về đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp; nguồn và số lượng vốn điều lệ của doanh nghiệp; thu thập các thông tin pháp lý thể hiện về loại hình mà doanh nghiệp đó đăng ký hoạt động; ngành nghề kinh doanh; nơi đăng ký kinh doanh, nơi thực tế hoạt động, trụ sở; người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và người đại diện theo ủy quyền (nếu có);
- Xác minh tài sản của doanh nghiệp như: Trụ sở hoạt động có phải là tài sản của doanh nghiệp không, tài sản cố định; tài sản lưu động; hàng hóa…, tại chính trụ sở của doanh nghiệp, các cơ quan có thẩm quyền; các hợp đồng kinh doanh thương mại đang thực hiện; các khoản nợ, các chủ nợ, các khoản được người khác trả và các thông tin cần thiết khác của doanh nghiệp.
- Xác minh tại cơ quan Thuế mà doanh nghiệp nộp thuế để xác định được doanh thu của doanh nghiệp, tình hình hoàn thuế giá trị gia tăng, tài khoản kinh doanh của doanh nghiệp;
- Xác minh tại các tổ chức tín dụng trên địa bàn để xác định các khoản tiền có trong tài khoản của doanh nghiệp;
- Xác minh tại Chính quyền địa phương nơi đặt trụ sở của doanh nghiệp để làm rõ doanh nghiệp còn hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký hay không…
- Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn 02 thành viên trở lên: xác minh thông qua việc yêu cầu Công ty phối hợp, cung cấp Sổ đăng ký thành viên (về việc những thông tin về người góp vốn  được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký thành viên) và các biên bản, tài liệu chứng minh người góp vốn đã thanh toán phần vốn góp; yêu cầu đương sự cung cấp giấy chứng nhận phần vốn góp…
- Xác minh tại cơ quan, tổ chức khác có liên quan đang quản lý, bảo quản, lưu giữ thông tin về tài sản, tài khoản của người phải thi hành án[1];
- Khi xác minh đối với tài sản của doanh nghiệp là cổ phần, cổ phiếu:
+ Chấp hành viên cần xác minh tại doanh nghiệp; tại VSDC để xác định tổ chức phát hành cổ phiếu, mã cổ phiếu, số lượng cổ phiếu mà người phải thi hành án đang nắm giữ, loại cổ phiếu (cổ phiếu phổ thông hay cổ phiếu ưu đãi); các nội dung liên quan đến chuyển quyền sở hữu cổ phiếu, chứng khoán (nếu có) và các thông tin khác có liên quan...
+ Chấp hành viên yêu cầu doanh nghiệp là công ty cổ phần cung cấp Sổ đăng ký cổ đông. Vì đây là tài liệu quan trọng ghi nhận thông tin về sở hữu cổ phần của các cổ đông công ty.
+ Xác minh tại VSDC, Sở Giao dịch chứng khoán (Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) để xác định chứng khoán đó đã niêm yết, đã đăng ký giao dịch chưa...
- Xác minh việc đăng ký biện pháp bảo đảm đối với chứng khoán tại VSDC và các Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước thuộc Bộ Tư pháp theo quy định.
Khi xác minh tại VSDC, cơ quan THADS yêu cầu VSDC cung cấp thông tin về: bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm; mã chứng khoán, số lượng chứng khoán đăng ký biện pháp bảo đảm; thời điểm đăng ký biện pháp bảo đảm và các thông tin khác có liên quan.
Ngày 11/01/2024, Bộ Tư pháp đã ban hành Công văn số 212/BTP-ĐKGDBĐ về việc triển khai cấp mã số sử dụng cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm. Theo đó, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan nâng cấp, hoàn thiện phần mềm đăng ký trực tuyến, đảm bảo khả năng và điều kiện cần thiết cho việc thực hiện cấp mã số sử dụng cơ sở dữ liệu (mã số SDCSDL) trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền có yêu cầu cấp mã số SDCSDL để tự tra cứu thông tin trong cơ sở dữ liệu thuộc Hệ thống đăng ký trực tuyến của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm (nay là Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm và Bồi thường nhà nước). Từ ngày 01/01/2024, việc tra cứu thông tin về biện pháp bảo đảm trong cơ sở dữ liệu thuộc Hệ thống đăng ký trực tuyến của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp được thực hiện thông qua mã số SDCSDL. Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp có trách nhiệm cấp mã số SDCSDL trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật có yêu cầu cấp mã số SDCSDL để tra cứu thông tin trong cơ sở dữ liệu thuộc Hệ thống đăng ký trực tuyến của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm. Mã số SDCSDL cấp cho cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền là mã số SDCSDL sử dụng thường xuyên hoặc có thời hạn (theo yêu cầu) và miễn phí.
Hiện nay, mỗi cơ quan THADS tỉnh, thành phố đã được cấp một mã số sử dụng cơ sở dữ liệu đảm bảo việc tra cứu thông tin về biện pháp bảo đảm được nhanh chóng, thuận lợi trong quá trình tổ chức thi hành án.
- Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn
Về nguyên tắc, trong thời gian 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, các thành viên công ty có quyền, nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn đã cam kết. Sau thời gian 90 ngày trên thì thành viên sẽ phải chịu trách nhiệm tương ứng với số vốn đã thực góp vào công ty.
Tuy nhiên, lại có quy định về trách nhiệm của Công ty phải đăng ký thay đổi vốn điều lệ, tỷ lệ phần vốn góp của các thành viên trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày cuối cùng phải góp vốn; trong thời gian trước ngày công ty đăng ký thay đổi thì các thành viên chưa góp vốn hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết phải chịu trách nhiệm tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp đã cam kết.
Do đó, bên cạnh việc xác minh, đề nghị cơ quan đăng ký kinh doanh cung cấp thông tin, giấy tờ đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp thì Chấp hành viên cần xác minh trực tiếp tại doanh nghiệp; đề nghị doanh nghiệp cung cấp thông tin về số vốn đã góp của thành viên là người phải thi hành án; trường hợp cần thiết, đề nghị họ cung cấp sổ sách, tài liệu để chứng minh.
- Xác định giá trị phần vốn góp của người phải thi hành án
Về lý thuyết, đây không phải là việc phức tạp, vì nó được tính trên tỷ lệ vốn mà người đó đã góp vào vốn điều lệ của doanh nghiệp, thông thường có thể căn cứ vào các tài liệu như Giấy phép đăng ký kinh doanh, biên bản góp vốn và sổ sách kế toán của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, khi một người thực hiện việc góp vốn (bằng tiền mặt hoặc bằng tài sản như quyền sử dụng đất, ô tô ...) thì tài sản đó đã trở thành tài sản của doanh nghiệp (công ty) và doanh nghiệp (công ty) là pháp nhân độc lập có quyền “chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp”. Trong quá trình thực hiện việc kinh doanh của mình thì vốn của doanh nghiệp có thể tăng hoặc giảm (so với vốn điều lệ) tùy theo hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, không thể căn cứ vào Giấy phép kinh doanh, Điều lệ của doanh nghiệp để cho rằng trị giá phần vốn góp đó là bao nhiêu tiền. Mặt khác, theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì không bắt buộc các thành viên phải thực hiện việc góp vốn trước khi thành lập doanh nghiệp dẫn đến nhiều trường hợp các thành viên có cam kết góp vốn nhưng sau đó không thực hiện việc góp vốn.
Vì thế, về nguyên tắc để xác định giá trị của phần vốn góp tại thời điểm cụ thể nào đó phải dựa trên nhiều tài liệu khác nhau như Giấy phép đăng ký kinh doanh, biên bản góp vốn, sổ sách kế toán, báo cáo tài chính của doanh nghiệp hoặc kết quả kiểm toán đối với doanh nghiệp.
2.1.2. Về trách nhiệm và thời hạn cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức nắm giữ thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án
- Khoản 6, Điều 7 Điều 44 Luật THADS quy định: Các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án (như: Bảo hiểm xã hội, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng…) có trách nhiệm cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; ký vào biên bản trong trường hợp Chấp hành viên xác minh trực tiếp hoặc trả lời bằng văn bản trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của Chấp hành viên, đối với thông tin về tài khoản thì phải cung cấp ngay.
- Trường hợp người được thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân không cung cấp hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường.
- Điều 8 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLSSTBXH-NHNNVN ngày 14/01/2014 hướng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án và thực hiện phong tỏa, khấu trừ để thi hành án quy định bên nhận yêu cầu cung cấp thông tin có trách nhiệm:
(i) Các thông tin cung cấp phải đảm bảo tính trung thực, chính xác và đúng đối tượng. Trường hợp không thể đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin thì bên nhận yêu cầu phải có văn bản thông báo nêu rõ lý do cho bên yêu cầu trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu; (ii) Bảo mật việc cung cấp thông tin và nội dung cung cấp thông tin để ngăn chặn các hành vi tẩu tán tài sản, trốn tránh việc thi hành án của người phải thi hành án và các tổ chức, cá nhân có liên quan; (iii) Lưu trữ hồ sơ liên quan đến việc cung cấp thông tin, bao gồm: văn bản yêu cầu cung cấp thông tin, văn bản cung cấp thông tin, tài liệu khác liên quan đến việc cung cấp thông tin.
Tuy nhiên, riêng với tài sản là chứng khoán, cần lưu ý về trách nhiệm cung cấp thông tin của VSDC để yêu cầu cho phù hợp. Theo đó, Điều 55 Luật Chứng khoán quy định VSDC có quyền: (1) Cung cấp dịch vụ đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán; đăng ký biện pháp bảo đảm đối với chứng khoán đã đăng ký tập trung tại VSDC; (2) Thực hiện cấp mã chứng khoán trong nước và mã số định danh chứng khoán quốc tế cho các loại chứng khoán đăng ký tập trung tại VSDC; (3) Chấp thuận, thay đổi, hủy bỏ đăng ký chứng khoán tại VSDC; (4) Chấp thuận, hủy bỏ tư cách thành viên của VSDC; đình chỉ hoạt động lưu ký chứng khoán của thành viên lưu ký; (5) Được sử dụng các nguồn hỗ trợ thanh toán trong trường hợp thành viên của VSDC tạm thời mất khả năng thanh toán theo quy định của pháp luật;
VSDC có nghĩa vụ: (1) Cung cấp thông tin liên quan đến việc sở hữu chứng khoán của người sở hữu chứng khoán trong công ty đại chúng, tổ chức phát hành theo yêu cầu của công ty đại chúng, tổ chức phát hành đó và cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; (2) Có trách nhiệm bảo mật thông tin liên quan đến sở hữu của khách hàng; từ chối việc phong tỏa, cầm giữ, trích chuyển tài sản, trích lục, sao chép thông tin sở hữu chứng khoán của khách hàng mà không có sự đồng ý của khách hàng, trừ trường hợp theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền hoặc yêu cầu cung cấp thông tin của kiểm toán viên thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính của VSDC, báo cáo tài chính của thành viên lưu ký theo quy định của pháp luật.
Do đó, các cơ quan THADS, cần lưu ý thẩm quyền của VSDC để yêu cầu cung cấp các thông tin cho phù hợp, như:  (1) các thông tin về việc đăng ký, lưu ký và bù trừ và thanh toán chứng khoán; (2) thông tin về việc đăng ký biện pháp bảo đảm đối với chứng khoán đã đăng ký tập trung tại VSDC; (3) Mã chứng khoán trong nước và mã số định danh chứng khoán quốc tế cho các loại chứng khoán đăng ký tập trung tại VSDC …
2.1.3. Phân biệt rõ tài sản của doanh nghiệp và tài sản của cá nhân người góp vốn, giữa tài sản góp vốn và phần vốn góp
Trường hợp cá nhân góp vốn bằng tài sản thì họ sẽ không còn quyền sở hữu với tài sản đã góp vốn mà thay vào đó họ được sở hữu cổ phần, phần vốn góp của doanh nghiệp. Do đó, khi xác minh điều kiện thi hành án, Chấp hành viên cần lưu ý xác minh rõ quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất của tài sản đó (thông qua các cơ quan đăng ký tài sản; xác minh tại doanh nghiệp; xác minh thông qua biên bản giao nhận tài sản góp vốn…) và phân biệt tài sản của cá nhân người góp vốn vào công ty và tài sản của công ty và lưu ý quy định của Luật Doanh nghiệp. Khi người góp vốn đó phải thi hành án thì phải xử lý tài sản là “cổ phần, cổ phiếu hoặc phần vốn góp” của người đó tại doanh nghiệp mà không được xử lý đối với tài sản góp vốn đó. 
Chấp hành viên cần lưu ý trong trường hợp người phải thi hành án đã hoàn thành việc góp vốn bằng tài sản (bao gồm: tiền Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam) vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật thì tài sản đó thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Chấp hành viên lưu ý không thực hiện việc kê biên tài sản cụ thể (ô tô, xe máy, quyền sử dụng đất...của doanh nghiệp) mà thực hiện việc kê biên, xử lý phần vốn góp của người phải thi hành án (ví dụ: ông A có 30% vốn góp trong doanh nghiệp). Người mua trúng đấu giá sẽ được sở hữu và hưởng các quyền lợi tại doanh nghiệp tương ứng với phần vốn góp mà họ đã mua tại doanh nghiệp chứ không được sở hữu một tài sản cụ thể nào.
Để phân biệt rõ tài sản của doanh nghiệp và tài sản của cá nhân người góp vốn, giữa tài sản góp vốn và phần vốn góp, cơ quan THADS cần lưu ý thời điểm chuyển quyền sở hữu trong trường hợp Thành viên góp vốn bằng tài sản, theo đó:
Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty theo quy định của pháp luật. Việc chuyển quyền sở hữu, chuyển quyền sử dụng đất đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ phí trước bạ;
Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, việc góp vốn phải được thực hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản, trừ trường hợp được thực hiện thông qua tài khoản.
Ví dụ 1: Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 20/02/2019 của Tòa án nhân dân thành phố T đã xét xử, quyết định: “Buộc ông Nguyễn Văn Y và bà Trần Thị M có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho bà Đinh Thị N số tiền nợ 3.400.000.000đ và 19 lượng vàng SJC – 9999. Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán số tiền nêu trên thì còn phải nộp số tiền lãi chậm trả theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, tương ứng với số tiền nợ gốc chưa trả và thời gian chậm thi hành án.
Qua xác minh được biết ông Nguyễn Văn Y và bà Trần Thị M có góp vốn vào Công ty Cổ phần MA quyền sử dụng đất có diện tích 25.000m2 đất tương ứng với 87.9% vốn của Công ty (quyền sử dụng đất này đã Sở Tài nguyên và Môi trường cấp giấy chứng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA88076 cho Công ty Cổ phần MA).
Trong trường hợp này cơ quan THADS không thực hiện việc kê biên tài sản là quyền sử dụng đất có diện tích 25.000m2 đất của Công ty Cổ phần MA để thi hành nghĩa vụ của Nguyễn Văn Y và bà Trần Thị M. Cơ quan THADS sẽ thực hiện kê biên 87.9% vốn của Công ty Cổ phần MA để thi hành án. Người mua trúng đấu giá sẽ được quyền sở hữu 87.9% vốn của Công ty Cổ phần MA.
Ví dụ 2: Bản án dân sự phúc thẩm số 213/2014/DSPT của Tòa án nhân dân tỉnh B thì ông Trần Văn H phải trả cho bà Đoàn Thị V số tiền 1.535.000.000đ và lãi chậm thi hành án.Qua xác minh được biết ông H đã thực hiện việc góp 500 triệu đồng tiền mặt, và quyền sử dụng đất trị giá 1,5 tỷ đồng tương đương với 40% vốn điều lệ của Công ty TNHH Hoàng Hải (thủ tục góp vốn đã hoàn tất theo quy định pháp luật và cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cho Công ty TNHH Hoàng Hải). Do ông Trần Văn H không tự nguyện thi hành án nên ngày 10/3/2015 cơ quan THADS đã ban hành Quyết định cưỡng chế số 75/QĐ-CCTHA kê biên quyền sử dụng đất nêu trên. Khi cơ quan THADS thực hiện việc kê biên thì Công ty TNHH Hoàng Hải phản đối nhưng Chấp hành viên vẫn tiến hành việc kê biên tài sản và hướng dẫn Công ty TNHH Hoàng Hải khởi kiện ra Tòa án nếu có tranh chấp với lý do quyền sử dụng đất trên là tài sản chung của ông H với doanh nghiệp và nó tương đương với phần vốn góp của ông Trần Văn H.
2.1.4. Phân biệt nghĩa vụ của doanh nghiệp với nghĩa vụ của cá nhân thành viên góp vốn
Trường hợp người phải thi hành án là cá nhân thành viên góp vốn thì xử lý tài sản là cổ phần, cổ phiếu, phần vốn góp của người đó trong doanh nghiệp. Trường hợp người phải thi hành án là doanh nghiệp thì Chấp hành viên thực hiện việc xử lý tài sản theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP. Tuy nhiên, trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên xử lý tài sản thế chấp để đảm việc thi hành án thì Chấp hành viên phải thực hiện việc xử lý tài sản thế chấp trước, nếu không đủ mới xử lý tài sản khác (như thực hiện khấu trừ tài khoản, xử lý vàng, bạc, đá quý, kim khí quý khác, giấy tờ có giá của doanh nghiệp đang do doanh nghiệp quản lý hoặc đang do người thứ ba giữ, trừ trường hợp các đương sự có thỏa thuận khác).
Ví dụ: Bản án số 12/2018/KDTM-PT ngày 14/12/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh A có nội dung: Buộc Công ty TNHH TV phải trả cho Ngân hàng X số tiền 10.260.000.000 đồng. Trường hợp đến ngày 14/6/2019 Công ty TNHH TV không trả thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan THADS phát mại tài sản thế chấp là là quyền sử dụng đất và các tài sản trên đất để đảm bảo việc thi hành án. Do Công ty TNHH TV không thực hiện việc trả tiền nên Ngân hàng X làm đơn yêu cầu thi hành án và yêu cầu xử lý tài sản trên để thi hành án. Cơ quan THADS đã ra quyết định thi hành án và Chấp hành viên tiến hành xác minh được biết tài khoản của Công ty TNHH TV có 320.000.000 đồng. Chấp hành viên đã ra quyết định khấu trừ khoản tiền này để đảm bảo việc thi hành án. Như vậy, trong trường hợp này, do Chấp hành viên không xử lý tài sản bảo đảm theo đúng nội dung bản án tuyên mà thực hiện việc khấu trừ tiền trong tài khoản không có ý kiến thỏa thuận của các bên dẫn đến đương sự khiếu nại.