2. Khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc
2.1. Những khó khăn, hạn chế chính
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai công tác BTNN còn một số hạn chế, vướng mắc sau:
(i) Trong công tác quản lý nhà nước về BTNN
- Cơ quan quản lý nhà nước về công tác BTNN chưa thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn chuyên sâu về nghiệp vụ giải quyết BTNN, lập hồ sơ đề nghị cấp kinh phí cho các cơ quan THADS địa phương.
- Hoạt động theo dõi, thống kê các vụ việc BTNN và các vụ việc có nguy cơ bồi thường mặc dù từng bước đã đi vào nề nếp, xong nhiều lúc chưa kịp thời, còn thụ động, điều này hạn chế đến việc kịp thời chỉ đạo cơ quan THADS địa phương trong việc giải quyết vụ việc.
- Công tác kiểm tra hoạt động giải quyết BTNN chưa được thực hiện thường xuyên và kịp thời.
- Còn tình trạng chậm trễ trong việc xây dựng báo cáo định kỳ, báo cáo đột xuất làm ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng báo cáo chung của toàn hệ thống.
(ii) Trong công tác giải quyết vụ việc cụ thể
- Tỷ lệ vụ việc BTNN trong hoạt động THADS ngày càng gia tăng.
- Tỷ lệ vụ việc BTNN giải quyết xong (đã được cấp kinh phí) còn chiếm tỷ lệ thấp.
- Nhiều vụ việc BTNN kéo dài nhiều năm, chưa được giải quyết dứt điểm.
(iii) Trong công tác phối hợp quản lý và giải quyết các vụ việc BTNN
- Việc phối hợp trong hoạt động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết bồi thường tại địa phương chưa được thường xuyên, kịp thời.
- Một số vấn đề về BTNN còn có nhiều cách hiểu, nhiều quan điểm khác nhau, chưa thống nhất dẫn đến việc phối hợp giải quyết yêu cầu BTNN còn lúng túng, kéo dài ảnh hưởng đến kết quả công tác.
- Công tác xin ý kiến hướng dẫn nghiệp vụ về BTNN trong công tác THADS tại một số Sở Tư pháp còn chậm trễ, chưa hiệu quả, gây kéo dài việc giải quyết BTNN.
2.2. Nguyên nhân
(i) Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, công tác BTNN trong THADS là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, đòi hỏi tính chính xác, cụ thể và phối hợp liên ngành cao, do đó, khi công tác phối hợp chưa nhịp nhàng sẽ dẫn dến vụ việc tồn đọng, kéo dài. Một số vụ việc phát sinh trách nhiệm bồi thường đã xảy ra nhiều năm, phải đánh giá lại toàn bộ vụ việc để xác định có vi phạm hay không, mức độ vi phạm và xác định lỗi của người gây thiệt hại, nên việc kiểm tra, xác minh lại hồ sơ thi hành án rất khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình thẩm định hồ sơ đề nghị cấp kinh phí bồi thường.
Một số vướng mắc trong quá trình giải quyết bồi thường nhà nước còn có nhiều quan điểm chưa thống nhất phương án giải quyết.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ để thực hiện công tác này kể cả Trung ương và địa phương hầu hết đều thực hiện theo chế độ kiêm nhiệm, còn mỏng và ít kinh nghiệm.
Thứ ba, lãnh đạo một số cơ quan THADS chưa sát sao trong công tác giải quyết bồi thường; chưa chủ động báo cáo các vụ việc đã phát sinh hoặc nguy cơ phát sinh yêu cầu BTNN, để được kịp thời hướng dẫn giải quyết, khắc phục hậu quả, giảm thiểu tối đa nguy cơ phải thực hiện trách nhiệm BTNN.
Thứ tư, việc bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ giải quyết yêu cầu bồi thường, lập hồ sơ đề nghị cấp kinh phí bảo đảm tài chính trong những năm qua triển khai chưa thường xuyên, sâu, rộng; nội dung tập huấn chưa đề cập nhiều đến những kỹ năng nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tiễn về giải quyết yêu cầu bồi thường nên thực tế vẫn còn lúng túng, khó khăn trong thực thi nhiệm vụ.
(ii) Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, phạm vi trách nhiệm BTNN trong hoạt động THADS theo Luật TNBTCN năm 2017 rất rộng, bao trùm toàn bộ các hành vi công vụ trong hoạt động THADS (từ việc ra hoặc không ra các các quyết định THADS trái pháp luật đến quá trình tổ chức thi hành hoặc không tổ chức thi hành các quyết định thi hành án trái pháp luật) đều có thể dẫn đến nguy cơ phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước trong hoạt động THADS.
Thứ hai, một số quy định của pháp luật bồi thường chưa thống nhất với quy định của pháp luật có liên quan hoặc đã bộc lộ nhiều bất cập trong quá trình triển khai, thực hiện.
Thứ ba, hiện nay, Luật TNBTCNN quy định cơ quan THADS là chủ thể phải BTNN trong việc chậm thi hành án, chậm giao tài sản trúng đấu giá. Tuy nhiên, việc chậm thi hành án, chậm giao tài sản trúng đấu giá trong nhiều trường hợp không phải do lỗi chủ quan của Chấp hành viên và cơ quan THADS mà do các nguyên nhân khách quan như: công dân không đồng tình với nội dung bản án tuyên, bản án bị hủy xét xử lại hoặc không có sự thống nhất phối hợp thực hiện của các sở, ban ngành có liên quan dẫn đến kéo dài việc thi hành án, không thể thi hành dứt điểm... Tuy nhiên hiện nay chưa có quy định phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong trường hợp này.
II. Đề xuất những nội dung sửa đổi bổ sung trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
1. Các điểm bất cập cần sớm được rà soát, sửa đổi
Thứ nhất, công tác THADS là lĩnh vực rất khó khăn, phức tạp, trong khi phạm vi trách nhiệm BTNN trong hoạt động THADS theo Luật TNBTCN năm 2017 lại rất rộng, bao trùm toàn bộ các hành vi công vụ trong hoạt động thi hành án dân sự (từ việc ra hoặc không ra các các quyết định THADS trái pháp luật đến quá trình tổ chức thi hành hoặc không tổ chức thi hành các quyết định thi hành án trái pháp luật) đều có thể dẫn đến nguy cơ phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước trong hoạt động THADS.
Thứ hai, một số quy định của pháp luật bồi thường chưa thống nhất với quy định của pháp luật có liên quan, trong quá trình giải quyết bồi thường nhà nước còn có nhiều quan điểm chưa thống nhất phương án giải quyết, ví dụ: trường hợp Tòa án khi giải quyết yêu cầu bồi thường theo thủ tục tố tụng dân sự quy định tại Điều 52 Luật TNBTCNN năm 2017 tuyên phần lãi suất chậm trả đối với số tiền nhà nước bồi thường cho người bị thiệt hại (số tiền này không được cơ quan tài chính cấp kinh phí để chi trả cho người bị thiệt hại), gây khó khăn trong việc lập hồ sơ, giải quyết cấp kinh phí BTNN.
Thứ ba, Luật TNBTCNN chưa có quy định cụ thể đối với một số trường hợp có thể kết thúc giải quyết yêu cầu BTNN, dẫn đến việc kéo dài vụ việc (chưa có quy định về việc đình chỉ giải quyết bồi thường trong trường hợp người yêu cầu rút đơn từ giai đoạn cơ quan giải quyết bồi thường xác minh thiệt hại; chưa có quy định về thủ tục cụ thể đối với việc kết thúc giải quyết yêu cầu bồi thường trong trường hợp thương lượng không thành và thời hạn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường đã hết, chưa có quy định về việc kết thúc giải quyết BTNN khi người có lỗi chủ động khắc phục hậu quả sau khi bản án hoặc quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật...).
Thứ tư, một số vụ việc phát sinh TNBTCNN trong lĩnh vực THADS có lỗi một phần hoặc toàn bộ thuộc các cơ quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan THADS trong việc kê biên, cưỡng chế, xác minh, bán đấu giá tài sản, tuy nhiên khi xét xử tại Tòa án trách nhiệm bồi thường hoàn toàn thuộc về cơ quan THADS, chưa có sự phân định rõ trách nhiệm phải bồi thường tương xứng với lỗi của từng chủ thể có liên quan.
Thứ năm, theo quy định tại Điều 62 Luật TNBTCNN 2017: “Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày quyết định giải quyết bồi thường hoặc bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường có hiệu lực pháp luật, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại phải gửi hồ sơ đề nghị cấp kinh phí bồi thường đến cơ quan tài chính có thẩm quyền”. Tuy nhiên, thực tế hồ sơ xin cấp kinh phí bồi thường cần chuyển qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn thẩm định lại, do đó, thời hạn 02 ngày là chưa đảm bảo tiến độ thực hiện trên thực tế; mặt khác, nhiều Bản án sau khi có hiệu lực pháp luật không được chuyển đến cơ quan quản lý người thi hành công vụ.
Thứ sáu, tại khoản 7 Điều 12 Luật TNBTCNN năm 2017: “Văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong hoạt động THADS quy định tại điều 21 của Luật này bao gồm:...7. Văn bản khác theo quy định của pháp luật đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 5 Điều 3 của Luật này”. Như vậy, phạm vi xác định văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong hoạt động THADS rất rộng, do đó cần quy định cụ thể hơn đối với nội dung này.
2. Đề xuất các nội dung sửa đổi, bổ sung trong Luật TNBTCNN
Đề xuất một số nội dung để hoàn thiện thể chế về TNBTCNN trong thời gian tới.
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 21 Luật TNBTCNN năm 2017 phạm TNBTCNN trong hoạt động THADS quá rộng, bao trùm toàn bộ quá trình tổ chức thi hành án nhưng một số vụ việc BTNN phát sinh trong lĩnh vực THADS có lỗi một phần thuộc các cơ quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan THADS trong việc kê biên, cưỡng chế, xác minh, bán đấu giá tài sản. Do đó, cần có quy định cụ thể để phân định trách nhiệm bồi thường của các cơ quan tương xứng với lỗi của từng chủ thể có liên quan và thu hẹp phạm vi trách nhiệm BTNN trong lĩnh vực THADS.
Thứ hai, một số quy định về trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường của pháp luật về BTNN và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa cụ thể, chưa phù hợp dẫn đến việc các cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường gặp khó khăn trong việc thực hiện. Hồ sơ xin cấp kinh phí BTNN tại các cơ quan THADS hầu hết đều thuộc thẩm quyền cấp kinh phí của Bộ Tài chính theo quy định tại Điều 62 Luật TNBTCNN 2017, tuy nhiên, thực tế hồ sơ xin cấp kinh phí bồi thường cần chuyển qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn thẩm định lại dẫn đến thời gian kéo dài. Do đó, đề xuất sửa Luật TNBTCNN năm 2017 theo hướng bổ sung trường hợp là cơ quan hưởng kinh phí từ ngân sách trung ương thì chuyển hồ sơ đến cơ quan quản lý cấp trên, để cơ quan cấp trên chịu trách nhiệm trực tiếp đối với hồ sơ xin cấp kinh phí BTNN trước khi chuyển cơ quan tài chính thẩm định.
Thứ ba, bổ sung quy định kết thúc giải quyết vụ việc bồi thường trong trường hợp người có lỗi chủ động khắc phục hậu quả sau khi bản án, quyết định giải quyết vụ việc bồi thường của Tòa án có hiệu lực pháp luật và kết thúc giải quyết vụ việc trong trường hợp thương lượng không thành, đã hết thời hạn khởi kiện tại Tòa án nhưng người yêu cầu bồi thường không khởi kiện.
Thứ tư, theo quy định tại Điều 62 Luật TNBTCNN năm 2017, thời hạn gửi hồ sơ đề nghị cấp kinh phí là 02 ngày làm việc kể từ khi quyết định giải quyết bồi thường hoặc bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu bồi thường có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, thời hạn 02 ngày để lập và gửi hồ sơ là chưa đảm bảo để cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại thu thập, hoàn thiện hồ sơ đề nghị cấp phát kinh phí bồi thường. Do đó, đề xuất sửa Luật TNBTCNN năm 2017 theo hướng tăng thời hạn gửi hồ sơ đề nghị cấp kinh phí.
III. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước
Đề xuất, kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành Luật TNBTCNN trong ngành THADS thời gian tới.
Thứ nhất, tập trung giải quyết, chỉ đạo giải quyết dứt điểm các vụ việc bồi thường, nhất là các vụ việc bức xúc, kéo dài trong nhiều năm; kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết bồi thường của các cơ quan THADS. Phát huy hơn nữa vai trò của người đứng đầu các cơ quan THADS, đặc biệt là những địa phương có vụ việc giải quyết bồi thường còn chậm, chưa đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác kiểm tra, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết BTNN để có biện pháp chỉ đạo kịp thời các vụ việc đã phát sinh, tránh tình trạng kéo dài, làm tăng số tiền phải BTNN.
Thứ ba, tăng cường các giải pháp nhằm hạn chế sai sót, vi phạm trong công tác thi hành án để giảm các vụ việc phải bồi thường nhà nước.
IV. Kết luận
Qua 07 năm thi hành Luật TNBTCNN trong lĩnh vực THADS, công tác bồi thường nhà nước đã đạt được kết quả bước đầu đáng ghi nhận về xây dựng thể chế, tổ chức công tác và giải quyết một số vụ việc điển hình. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền lợi của người bị thiệt hại, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và giảm rủi ro pháp lý cho cơ quan thi hành án, cần tập trung hoàn thiện pháp luật, tăng cường nguồn lực, cơ chế phối hợp và áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý vụ việc.
Trên cơ sở những phân tích và đề xuất nêu trên, kiến nghị Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan tiếp tục tiếp thu ý kiến tại hội thảo để hoàn thiện dự án sửa đổi Luật TNBTCNN, đảm bảo các quy định mới khả thi, phù hợp thực tiễn và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân.