Những khó khăn vướng mắc và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính

07/02/2018


1. Một số vấn đề về thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính
1.1 Khái niệm thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính
Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án (sau đây gọi là Nghị định số 71/2016/NĐ-CP), “Thi hành án hành chính là việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính được thi hành quy định tại Điều 309 Luật tố tụng hành chính năm 2015 (TTHC), trừ quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính”. Đồng thời, điểm h khoản 1 Điều 311 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự (THADS)”.
Như vậy, theo các quy định trên, không phải mọi phán quyết trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính đều được điều chỉnh bởi pháp luật TTHC; những phán quyết của Tòa án về phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật về THADS và được tổ chức thực hiện theo quy trình THADS.
Về những nội dung cụ thể thuộc “phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính”, khoản 4 Điều 1 Thông tư số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự quy định: “Đối với bản án, quyết định của Tòa án trong vụ án hành chính, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chỉ thụ lý và ra quyết định thi hành án đối với phần nghĩa vụ về tài sản như án phí, bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, giao lại đất đai được tuyên cụ thể trong bản án, quyết định của Tòa án. Những nội dung khác của bản án, quyết định được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính”.
Từ đó, có thể hiểu thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính là việc cơ quan THADS tổ chức thi hành các nghĩa vụ về tài sản như: án phí, bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, giao lại đất đai được tuyên cụ thể trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính theo quy định của Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành.
1.2. Đặc điểm của việc thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính
Có thể nói, thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính là một dạng THADS cụ thể, do đó cũng có những đặc trưng của THADS như: Là quá trình diễn ra sau xét xử, giải quyết của Tòa án; bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án; được điều chỉnh bởi pháp luật về THADS; cơ quan THADS là cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hành; vừa mang tính tự nguyện, vừa mang tính cưỡng chế... Bên cạnh đó, việc thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính còn có những đặc trưng riêng so với các vụ việc THADS khác, cụ thể như sau:
Một là, về tính cưỡng chế thi hành. Tính tự nguyện, cưỡng chế trong quá trình thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính là do các quy định về THADS được áp dụng đối với việc thi hành án này. Theo pháp luật THADS, các bên đương sự có quyền tự nguyện, thỏa thuận về việc thi hành án, nếu thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Nếu không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thi hành án thì có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, tính cưỡng chế trong trường hợp này không nhằm mục đích răn đe, tước đoạt quyền nhân thân của đương sự như trong thi hành án hình sự hoặc tước đoạt quyền tài sản và quyền nhân thân như các việc THADS khác. Đặc điểm này xuất phát từ đặc điểm về chủ thể phải thi hành án. Các chủ thể phải thi hành án trong trường hợp này là các cơ quan hành chính nhà nước, tài sản của các cơ quan này là do nhà nước cấp để phục vụ thực hiện chức năng, nhiệm vụ được nhà nước giao và suy cho cùng là hoạt động vì mục đích của xã hội, của nhân dân; không phải là tài sản thuộc sở hữu riêng của cơ quan hành chính đó.
Hai là, về đối tượng của việc thi hành án: Đối tượng của việc thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính được giới hạn hẹp hơn so với các hoạt động THADS nói chung. Trong THADS, đối tượng của thi hành án là các quyết định về dân sự (theo nghĩa rộng) mang tính chất tài sản và nhân thân. Trong khi đó, đối tượng của thi hành quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính chỉ bao gồm các khoản: Án phí, bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, giao lại đất đai được tuyên cụ thể trong bản án, quyết định của Tòa án (Khoản 4 Điều 1 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao).
Ba là, việc thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính có liên quan trực tiếp đến việc thi hành án hành chính: Theo quy định hiện hành, việc thi hành án hành chính được thực hiện theo cơ chế “tự thi hành” của người phải thi hành án. Theo đó, người phải thi hành án (thường là các cơ quan nhà nước) có trách nhiệm (tự mình) nghiêm chỉnh chấp hành các nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa. Các cơ quan như: Tòa án, cơ quan THADS; Thủ trưởng trực tiếp và Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án… tham gia với vai trò là các cơ quan hỗ trợ cho quá trình thi hành án hành chính. Do đó, việc thi hành phần tài sản ít nhiều chịu ảnh hưởng và có liên quan trực tiếp đến việc thi hành những nội dung khác của bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính.
Bốn là, việc thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính có tính phức tạp đặc biệt, nhất là trong trường hợp Tòa án tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện, tuyên bố quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật và hủy, buộc yêu cầu chấm dứt hành vi hành chính đó và bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn. Lúc này, cơ quan đã ban hành quyết định hành chính vừa là cơ quan tổ chức thi hành phần hành chính vừa là cơ quan phải thi hành án. Thực tế, không phải lúc nào các cơ quan này cũng đồng ý với kết quả xét xử của Tòa án và trong thực tế luôn có xu hướng bảo vệ quyết định hành chính mà mình đã ban hành. Người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước có hành vi hành chính bị tuyên bố là trái pháp luật và người đứng đầu cơ quan nhà nước đã ban hành quyết định hành chính bị tuyên bố là trái pháp luật đều là những người có quyền lực, việc buộc họ phải thi hành án là điều không dễ. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cũng không đơn giản như với các chủ thể khác. Bởi vì các cơ quan nhà nước chỉ có kinh phí do ngân sách nhà nước cấp để hoạt động, trụ sở, phương tiện để làm việc. Việc cưỡng chế thi hành nghĩa vụ về tài sản có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan này[1].
Năm là, về chủ thể phải thi hành án. Do các đối tượng bị khởi kiện trong các vụ án hành chính là các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền. Do đó, người phải thi hành án trong trường hợp này là các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước; khác với các hoạt động THADS khác.
Liên quan đến chủ thể phải thi hành án nêu trên, hiện nay đang có những quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, với đặc thù chủ thể phải thi hành án như vậy, việc thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính sẽ gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hành án là các cơ quan THADS nên công tác này là một lĩnh vực tương đối “nhạy cảm”, “dễ đụng chạm”, đặc biệt là khi người phải thi hành án là UBND hoặc Chủ tịch UBND, bởi theo quy định tại Điều 173, 174, 175 Luật THADS thì Ủy ban nhân dân cùng cấp có quyền “chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong THADS trên địa bàn” và “có ý kiến bằng văn bản về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự”. Đồng thời, trên thực tế, các cơ quan có thẩm quyền rất khó có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế để thi hành phần nghĩa vụ này vì bản thân các cơ quan phải thi hành án không có năng lực thực hiện; nhất là ở những địa phương có điều kiện kinh tế khó khăn, hoạt động hoàn toàn bằng ngân sách nhà nước. Các biện pháp bổ sung như là cắt giảm các khoản chi, các khoản hỗ trợ... cũng rất khó thực hiện, bởi vì khi hoạt động của các cơ quan nhà nước chủ yếu phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, thì việc áp dụng biện pháp cưỡng chế tước đoạt quyền tài sản sẽ gây ảnh hưởng đến kinh phí bảo đảm cho hoạt động của cơ quan.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến khác cho rằng, chính đặc điểm về chủ thể phải thi hành án là các cơ quan hành chính nhà nước, người có chức vụ, quyền hạn nên việc tuân thủ các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính nói chung và thi hành phần tài sản trong các bản án, quyết định của Tòa án nói riêng sẽ thuận lợi hơn.
1.3 Các khoản phải thi hành quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính
Hiện nay, tại khoản 4 Điều 1 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định: “1... 2.... 3.... 4. Đối với bản án, quyết định của Tòa án trong vụ án hành chính, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chỉ thụ lý và ra quyết định thi hành án đối với phần nghĩa vụ về tài sản như án phí, bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, giao lại đất đai được tuyên cụ thể trong bản án, quyết định của Tòa án. Những nội dung khác của bản án, quyết định được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính”. Như vậy, theo quy định trên, mặc dù Luật TTHC năm 2015 và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP sử dụng thuật ngữ chung là “thi hành quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính”; nhưng “quyết định về phần tài sản” chỉ bao gồm các khoản sau:
- Án phí;
- Bồi thường thiệt hại;
- Trả lại tài sản, giao lại đất đai được tuyên cụ thể trong bản án, quyết định của Tòa án.
1.4 Một số tồn tại, hạn chế trong việc thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính
Hiện nay, việc thống kê kết quả thi hành phần tài sản trong trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính được thực hiện theo quy định chung tại Thông tư số 01/2013/TT-BTP ngày 03/01/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn Chế độ báo cáo thống kê thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 08/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015). Theo đó, Bộ Tư pháp đã xây dựng các biểu mẫu thống kê riêng về thi hành phần tài sản trong trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính. Tuy nhiên, hàng năm, khi báo cáo Chính phủ, Quốc hội về công tác thi hành án dân sự thì Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp không thực hiện báo cáo, đánh giá riêng về loại việc này, mà tổng hợp, đánh giá vào kết quả THADS nói chung.
Kết quả thống kê công tác thi hành phần tài sản trong trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính năm 2017 như sau:
- Về việc, tổng số thụ lý là 2,568 việc, trong đó có 2,604 việc chủ động; số chưa có điều kiện thi hành là 26 việc; thi hành xong đạt tỉ lệ 95,94%.
- Về tiền, tổng số thụ lý là 7 tỷ 392 triệu 213 nghìn đồng, trong đó có 2 tỷ 414 triệu 004 nghìn đồng về chủ động; thi hành xong đạt tỷ lệ 62,34%.
Qua thực tiễn thi hành phần tài sản trong trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính cho thấy: Nội dung thi hành về chủ động như án phí chiếm phần lớn, các việc theo đơn như: Bồi thường thiệt hại; trả lại tài sản, giao lại đất đai cho người khởi kiện chiếm tỷ lệ ít hơn. Bên cạnh đó, qua công tác theo dõi thi hành án hành chính nói chung, chúng tôi nhận thấy, công tác này vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc sau đây:
a) Tồn tại, hạn chế
Một là, tình trạng không chấp hành nghiêm bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính nói chung và phần tài sản trong bản án, quyết định của một số cơ quan nhà nước vẫn còn, nhất là các khoản trả lại tài sản, giao lại đất đai cho người khởi kiện, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan nhà nước, gây bức xúc, khiếu kiện kéo dài. Thời gian vừa qua, Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự liên tục nhận được đơn thư khiếu nại của người dân liên quan đến việc không chấp hành hành án của cơ quan nhà nước như vụ bà Thái Thị Xuân Lan (tỉnh ĐăkLăk), vụ ông Lê Ân (tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu)..
Hai là, một số Tòa án địa phương thực hiện chưa nghiêm việc chuyển giao bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính sang cơ quan THADS theo quy định tại Điều 196, Điều 244 của Luật TTHC và Điều 28 của Luật THADS, trong khi đây là cơ sở quan trọng, phát sinh trách nhiệm theo dõi thi hành án hành chính và tổ chức thi hành các khoản án phí của các cơ quan THADS,cụ thể: Theo số liệu thống kê năm 2017, Tòa án nhân dân các cấp đã chuyển giao cho cơ quan THADS là: 1.974 bản án, quyết định/5.764 vụ việc các cấp Tòa án đã xét xử, giải quyết trong năm (Báo cáo số 39/BC-TA ngày 10/10/2017 của Tòa án nhân dân tối cao).
Như vậy, số việc thi hành án hành chính các cơ quan THADS thụ lý giải quyết thấp hơn khá nhiều so với số lượng vụ án hành chính đã được Tòa án nhân dân các cấp thụ lý, xét xử. Do đó, dẫn đến tình trạng không đánh giá được toàn diện hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, thiếu cơ sở để tham mưu, đề xuất trong quá trình quản lý nhà nước cũng như trong việc hoàn thiện pháp luật…
Ba là, công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành, cơ quan khác và giữa Cục THADS với các cơ quan liên quan trong công tác thi hành án hành chính còn chưa chặt chẽ, thiếu sự nhịp nhàng; cơ chế thông tin, trao đổi giữa các cơ quan này còn chưa đầy đủ. Một số Bộ, ngành, địa phương, cơ quan THADS chưa thật sự quan tâm, phối hợp, chấp hành còn chưa nghiêm chế độ thông tin, báo cáo Chính phủ về công tác thi hành án hành chính nói chung và việc thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính nói riêng.
Bốn là, công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm sát việc thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính chưa được chú trọng thực hiện. Do đó, chưa kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc đối với từng vụ việc, để hỗ trợ về thủ tục hiệu quả cho công dân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền của mình, cũng như chưa kịp thời hướng dẫn các cơ quan có trách nhiệm thi hành bản án, quyết định hành chính của Tòa án theo đúng quy định của pháp luật.
b) Về khó khăn, vướng mắc
Một là, thẩm quyền tổ chức thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính thuộc các cơ quan THADS. Tuy nhiên, trong điều kiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan THADS hiện nay rất dễ tạo ra tâm lý nể nang trong việc thực hiện nhiệm vụ. Vì vậy, kết quả thi hành đối với nội dung này chưa đạt được kết quả như mong muốn.
Hai là, khó khăn, vướng mắc liên quan đến đặc điểm về chủ thể phải thi hành án. Người phải thi hành án trong trường hợp này là các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước. Do đó, việc thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính sẽ gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hành án là các cơ quan THADS nên công tác này là một lĩnh vực tương đối “nhạy cảm”, “dễ đụng chạm”, đặc biệt là khi người phải thi hành án là UBND hoặc Chủ tịch UBND như đã nêu trên. Đồng thời, rất khó có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế để thi hành phần nghĩa vụ này vì sẽ gây ảnh hưởng đến kinh phí bảo đảm cho hoạt động của cơ quan phải thi hành án.
Ba là, chưa có cơ chế hiệu quả để xử lý những trường hợp không thi hành án. Mặc dù Điều 314 Luật tố tụng hành chính 2015 có quy định: “(1) Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thi hành án cố ý không chấp hành bản án, quyết định, quyết định buộc thi hành án của Tòa án thì tùy từng trường hợp mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính, hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; (2) Người lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án thì tùy từng trường hợp mà bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”. Đây là quy định mang tính răn đe nhưng chưa có cơ chế để thực hiện trên thực tế; pháp luật hiện hành chưa có quy định hướng dẫn cụ thể việc thực hiện xử phạt vi phạm hành chính, hành vi vi phạm phải xử lý trong lĩnh vực này nên quy định trên chỉ mang tính hình thức, không hiệu quả.
Bốn là, chưa có sự phân định rõ ràng giữa nội dung thi hành phần tài sản với nội dung thi hành các nghĩa vụ về hành chính trong cùng bản án, quyết định của Tòa án. Hiện nay, theo khoản 4 Điều 1 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC thì phần tài sản trong các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính gồm các khoản sau: Án phí; bồi thường thiệt hại; trả lại tài sản, giao lại đất đai được tuyên cụ thể trong bản án, quyết định của Tòa án. Trong đó, nội dung “bồi thường thiệt hại” còn có quan điểm khác nhau, nhất là phải hiểu như thế nào là đã được “tuyên cụ thể trong bản án, quyết định của Tòa án” và trong nhiều trường hợp, nếu hiểu nội dung “bồi thường thiệt hại” phải được thi hành theo quy trình THADS thì số tiền phải thi hành án có thể là rất lớn, vượt quá khả năng thi hành của các cơ quan nhà nước (ví dụ như vụ ông Lê Ân ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).
1.5 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính
Để khắc phục được những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc nêu trên, nhằm nâng cao hiệu quả thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, chúng tôi kiến nghị một số giải pháp sau:
Một là, khắc phục triệt để tình trạng án tuyên không rõ, khó thi hành trong tố tụng hành chính:
Án tuyên không rõ, khó thi hành sẽ gây rất nhiều khó khăn cho công tác thi hành án, làm giảm hiệu quả việc khắc phục, bồi thường, bồi hoàn, thu hồi tài sản cho nhà nước, tổ chức, cá nhân… Xét xử nhưng không thi hành được thì ý nghĩa và hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án cũng bị giảm sút. Do vậy, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cần hạn chế, khắc phục việc án tuyên không rõ, khó thi hành trong tố tụng hành chính. Liên quan đến nội dung này, vừa qua, tại Hội thảo “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hành chính ở Việt Nam” do Tổng cục THADS tổ chức, các chuyên gia pháp lý cao cấp của JICA đã chia sẻ kinh nghiệm giải quyết và thi hành các phán quyết về vụ án hành chính của Tòa án của Nhật Bản. Theo đó, một trong những điểm quan trọng trong việc giải quyết các vụ án hành chính là: Trước khi ra các bản án, quyết định, có một Hội đồng tư vấn độc lập có nhiệm vụ phân tích, xem xét tính khả thi để tư vấn cho Thẩm phán về nội dung phán quyết bảo đảm tính khả thi trong bản án, quyết định của Tòa án. Đây là điểm mấu chốt giúp công tác thi hành án hành chính tại Nhật Bản đạt hiệu quả cao và cũng là một trong những nội dung mà Việt Nam có thể nghiên cứu để học tập, nhất là trong điều kiện hiện nay, các tranh chấp, khiếu kiện hành chính tập trung nhiều ở lĩnh vực đất đai, là một lĩnh vực phức tạp, có tính lịch sử kéo dài và các phán quyết thường có tính khả thi không cao.
Hai là, về thể chế thi hành án dân sự: Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, việc thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính có những đặc thù riêng. Do đó, chúng tôi đề xuất, nghiên cứu dành một mục riêng trong Luật THADS để quy định cụ thể về nội dung này. Trong đó, cần làm rõ nội dung được tuyên cụ thể trong bản án, quyết định của Tòa án tại khoản 4 Điều 1 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC;cần xem xét quy định cụ thể các biện pháp cưỡng chế đối với cả cơ quan nhà nước, cán bộ công chức bị kiện trong trường hợp không chấp hành án hoặc chấp hành không đúng bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính như quyết định phạt tiền hoặc xử lý hành chính nêu tên trên phương tiện truyền thông…
Ba là, tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm thi hành đầy đủ các quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật TTHC năm 2015, Nghị định số 71/2016/NĐ-CP nói chung và thi hành các quyết định về phần tài sản trong các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính nói riêng, cụ thể như:
- Tiếp tục tập trung quán triệt, triển khai Luật TTHC năm 2015, Nghị định số 71/2016/NĐ-CP nhằm nâng cao nhận thức, xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các Bộ, ngành và UBND các cấp trong việc chấp hành, chỉ đạo chấp hành nghiêm các bản án hành chính đã có hiệu lực pháp luật. Chú trọng và nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về THAHC đến đội ngũ công chức và các tầng lớp nhân dân nhằm nâng cao nhận thức về công tác THAHC;
- Tổ chức kiểm tra công tác THAHC ở các Bộ, ngành, địa phương theo hướng có trọng tâm, trọng điểm tại các cơ quan, địa phương có số lượng vụ việc THAHC lớn, phức tạp, kéo dài nhằm xác định rõ nguyên nhân, đề xuất giải pháp bảo đảm thi hành dứt điểm các bản án hành chính đã có hiệu lực pháp luật, tránh tình trạng tồn đọng án hành chính, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giảm uy tín của cơ quan nhà nước và gây bức xúc trong dư luận xã hội;
- Tiếp tục phối hợp với Tòa án nhân dân tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, nhất là trong việc chuyển giao cũng như giải thích bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính cho cơ quan THADS để theo dõi và những vướng mắc trong quá trình Tòa án thực hiện thẩm quyền xét xử và ra quyết định buộc THAHC để bảo đảm tính khả thi của các bản án, quyết định của Tòa án.
Ngoài ra, cần tiếp tục mở rộng hơn nữa sự kiểm soát của phương tiện thông tin đại chúng và người dân trong việc xét xử và thi hành án hành chính. Đây là một kênh giám sát hiệu quả, đề cao dân chủ và đòi hỏi tòa án, cơ quan hành chính và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải nêu cao hơn nữa trách nhiệm trong việc thực thi nhiệm vụ, tôn trọng và thi hành pháp luật.
Bốn là, về lâu dài, Nhà nước có thể nghiên cứu lập một loại quỹ bồi hoàn độc lập để bảo đảm cho việc thi hành các khoản về tài sản trong các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính như kinh nghiệm của nước Cộng hòa Pháp. Việc ra đời và hoạt động của Quỹ này có thể giúp các cơ quan nhà nước phải thi hành án hoàn thành được nghĩa vụ thi hành án của mình nhưng vẫn đảm bảo hoạt động bình thường, không làm ảnh hưởng đến chức năng, nhiệm vụ của mình; đồng thời, đảm bảo quyền lợi của bên được thi hành án; giữ gìn kỷ cương phép nước, tính nghiêm minh của pháp luật.
Vụ Nghiệp vụ 3, Tổng cục THADS
 

[1] Xem: Nguyễn Đức Chính (2010), “Việc thi hành án, quyết đinh hành chính của Tòa án, cơ quan quản lý nhà nước vê thi hành án hành chính”, Ký yếu Hội thảo về dự án Luật Tố tụng hành chính, tr. 4.