Quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án

28/09/2021
Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, ngoài các chủ thể tham gia vào các quan hệ ngoại giao chủ yếu như cơ quan ngoại giao, cơ quan lãnh sự thì các chủ thể khác như Nhà nước, cơ quan nhà nước, các công ty, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty đa quốc gia, v.v. sẽ tham gia ngày càng nhiều vào các giao dịch kinh tế, dân sự, thương mại ở nước ngoài. Do đó, tất yếu sẽ phát sinh những tranh chấp dân sự, kinh tế, thương mại có yếu tố nước ngoài cần phải được giải quyết bởi cơ quan tài phán có thẩm quyền. Về nguyên tắc, phán quyết đó phải được tôn trọng và bảo đảm thi hành, trừ trường hợp được miễn trừ nghĩa vụ thi hành theo quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Thực tế ở Việt Nam trong thời gian qua cũng đã xuất hiện nhiều vụ án kinh tế, thương mại liên quan đến các chủ thể này trong lĩnh vực tư pháp quốc tế,…Việc thi hành phán quyết của Tòa án trong những trường hợp này luôn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, đặc biệt là từ thể chế. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp một cái nhìn tổng thể quy định của pháp luật Việt Nam cũng như các quy định của pháp luật quốc tế có liên quan đến quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án.


1. Quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế bảo đảm THA, trước tiên phải đề cập đến đó là Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam năm 1993 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao năm 1993). Theo quy định tại Điều 1 và khoản 1 Điều 17 của Pháp lệnh này thì đối tượng được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ bao gồm cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam và thành viên của những cơ quan đó, cũng như thành viên gia đình họ. Mục đích của những quyền ưu đãi, miễn trừ này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan và thành viên của các cơ quan nói trên thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ chính thức với tư cách đại diện tại Việt Nam.
Các quyền miễn trừ cơ bản liên quan đến các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án áp dụng đối với các chủ thể, đối tượng trong lĩnh vực ngoại giao, bao gồm:
Một là, quyền miễn trừ áp dụng biện pháp bảo đảm THA đối với trụ sở của cơ quan đại diện ngoại giao và tài sản trong trụ sở, kể cả phương tiện giao thông của cơ quan. Điểm b khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao năm 1993 quy định “Trụ sở của cơ quan đại diện ngoại giao" là những toà nhà hoặc các bộ phận của toà nhà và những phần đất trực thuộc được sử dụng vào mục đích chính thức của cơ quan, kể cả nhà ở của người đứng đầu cơ quan. Trụ sở của cơ quan đại diện ngoại giao là bất khả xâm phạm. Nhà chức trách Việt Nam chỉ được phép vào cơ quan đại diện ngoại giao khi có sự đồng ý của người đứng đầu cơ quan hoặc người được uỷ quyền.1Trụ sở của cơ quan đại diện ngoại giao và tài sản trong trụ sở, kể cả phương tiện giao thông của cơ quan không thể bị khám xét, trưng dụng, tịch thu hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm THA.2Theo quy định này thì Chấp hành viên cơ quan THADS sẽ không được quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm THA, bao gồm biện pháp phong tỏa tài khoản; tạm giữ tài sản, giấy tờ; tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sảnđối với trụ sở của cơ quan đại diện ngoại giao và tài sản trong trụ sở, kể cả phương tiện giao thông của cơ quan đại diện ngoại giao.
Hai là,viên chức ngoại giao được hưởng quyền miễn trừ đối với các biện pháp THA, trừ trường hợp họ tham gia với tư cách cá nhân vào các tranh chấp liên quan đến bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam; việc thừa kế; hoạt động thương mại hoặc nghề nghiệp mà viên chức ngoại giao tiến hành tại Việt Nam ngoài phạm vi chức năng chính thức của họ. Trong trường hợp phải áp dụng biện pháp THA thì việc đó phải được tiến hành trên cơ sở tôn trọng quyền bất khả xâm phạm về thân thể và nơi ở của viên chức ngoại giao.
Mặc dù Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao năm 1993 không đề cập đến các biện pháp THA bao gồm các biện pháp nào, hơn nữa Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 cũng không còn dùng khái niệm biện pháp THA một cách chung chung như quy định tại các văn bản pháp luật THADS trước đây nữa. Tuy nhiên, các biện pháp THA ở đây có thể được hiểu đó chính là toàn bộ các trình tự, thủ tục THADS theo quy định của pháp luật về THADS. Mặc dù vậy, trong quá trình áp dụng các biện pháp THA đối với các viên chức ngoại giao cũng phải đặc biệt lưu ý tôn trọng quyền bất khả xâm phạm về thân thể và nơi ở của họ theo quy định của Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Luật cư trú, các quy định khác của pháp luật Việt Nam và các văn bản pháp luật quốc tế có liên quan.
Ba là, việc từ bỏ quyền miễn trừ xét xử về dân sự hoặc xử phạt hành chính đối với các viên chức ngoại giao và những người được quy định tại Điều 174của Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao năm 1993 không bao gồm việc từ bỏ quyền miễn trừ đối với biện pháp THA và quyết định xử phạt hành chính. Việc từ bỏ quyền miễn trừ đối với biện pháp THA và quyết định xử phạt hành chính cần được thể hiện rõ ràng và riêng biệt5 
Theo quy định của Pháp lệnh này thì cần phân biệt quyền miễn trừ xét xử về dân sự hoặc xử phạt hành chính với quyền miễn trừ đối với biện pháp THA. Theo đó thì việc từ bỏ quyền miễn trừ xét xử về dân sự không đồng nghĩa với việc từ bỏ quyền miễn trừ đối với các biện pháp THA. Việc từ bỏ quyền miễn trừ đối với biện pháp THA cần được thể hiện rõ ràng và riêng biệt. Tuy nhiên, hiện nay trong các quy định của pháp luật THADS hiện hành cũng như các quy định của pháp luật khác có liên quan chưa có điều khoản nào quy định cụ thể, rõ ràng và riêng biệt về việc từ bỏ quyền miễn trừ đối với các biện pháp THA, ví dụ như quy định về hình thức, nội dung, thẩm quyền, thời hạn, hậu quả pháp lý, v.v. của việc từ bỏ quyền miễn trừ đối với biện pháp THA.
Bốn là, việc từ bỏ quyền miễn trừ đối với biện pháp THA đối với viên chức và nhân viên lãnh sự. Khoản 3 Điều 30 Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao năm 1993 quy định việc từ bỏ quyền miễn trừ xét xử về dân sự và xử phạt hành chính đối với viên chức và nhân viên lãnh sự quy định tại Điều 28 của Pháp lệnh này không bao gồm việc từ bỏ quyền miễn trừ đối với biện pháp THA và quyết định xử phạt hành chính. Việc từ bỏ quyền miễn trừ đối với biện pháp THA và quyết định xử phạt hành chính cần được thể hiện rõ ràng và riêng biệt
Về nội dung liên quan đến quyền miễn trừ xét xử về dân sự và quyền miễn trừ đối với các biện pháp thi hành án, Điều 28 Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao năm 1993 quy định viên chức lãnh sự và nhân viên lãnh sự khi thực hiện chức năng của mình được hưởng quyền miễn trừ xét xử về dân sự và xử phạt hành chính, trừ trường hợp liên quan đến vụ kiện dân sự về một hợp đồng do viên chức lãnh sự hoặc nhân viên lãnh sự ký kết không với tư cách là người được nước cử lãnh sự uỷ quyền; hoặc về tai nạn giao thông xảy ra tại Việt Nam mà bên thứ ba đòi bồi thường thiệt hại.
Từ những phân tích nêu trên cho thấy, Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao năm 1993 mới chỉ quy định quyền miễn trừ đối với các biện pháp THA đối với cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam và thành viên của những cơ quan đó, cũng như thành viên gia đình họ khi họ thực hiện chức năng, nhiệm vụ chính thức với tư cách đại diện tại Việt Nam. Như vậy, phạm vi đối tượng được quyền miễn trừ đối với các biện pháp THA chỉ được giới hạn trong phạm vi hẹp thuộc lĩnh vực ngoại giao, lãnh sự. Ngoài ra, Pháp lệnh này và Nghị định số 73-CP ngày 30/7/1994 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh này cũng không có hướng dẫn cụ thể về các biện pháp THA được miễn trừ bao gồm những biện pháp nào, đồng thời cũng không có các quy định dẫn chiếu áp dụng các quy định của pháp luật THADS. Hơn nữa, thuật ngữ pháp lý sử dụng trong Pháp lệnh này và trong các quy định của pháp luật THADS cũng chưa bảo đảm tính nhất quán, vì Luật THADS hiện hành không sử dụng khái niệm biện pháp THA chung chung nữa mà sử dụng biện pháp bảo đảm THA, biện pháp cưỡng chế THA và trình tự, thủ tục thi hành các loại bản án, quyết định. 2. Quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về quyền miễn trừ đối với các biện pháp THA chưa được quy định đầy đủ và chưa bảo đảm tính ổn định. Trước đây, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 (đã hết hiệu lực thi hành) có quy định: “Vụ án dân sự có liên quan đến nhà nước nước ngoài hoặc người được hưởng quy chế ngoại giao được giải quyết bằng con đường ngoại giao, trừ trường hợp nhà nước nước ngoài hoặc người được hưởng quy chế ngoại giao đồng ý tham gia tố tụng tại tòa án Việt Nam”.6Hoặc Điều 86 của Pháp lệnh này quy định về thi hành những quy định về TTDS trong những điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp và pháp lý như sau: “Đối với những việc có liên quan đến công dân, pháp nhân các nước mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết điều ước quốc tế về tư pháp và pháp lý thì TTDS được tiến hành theo quy định của những điều ước đó”. Ở thời điểm đó thì đây là văn bản pháp luật duy nhất có quy định về quyền miễn trừ của nhà nước nước ngoài trong TTDS quốc tế nhưng cũng không đề cập đến nội dung của quyền miễn trừ đối với các biện pháp THA. Sau đó, kể từ ngày 01/01/2005 khi Bộ luật TTDS năm 2004 có hiệu lực pháp luật cho đến trước khi có Bộ luật TTDS năm 2015, Bộ luật dân sự năm 2015 thì không còn có quy phạm nào thừa nhận quyền miễn trừ tư pháp của nhà nước nước ngoài ở Việt Nam. 
Khắc phục những hạn chế nêu trên, Bộ luật TTDS năm 2015 đã bổ sung nhiều điều khoản liên quan đến quyền ưu đãi, miễn trừ của cơ quan, tổ chức nước ngoài và tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam, Nhà nước nước ngoài. Ví dụ, khoản 3, 4 Điều 2 Bộ luật này quy định: “3. Bộ luật TTDS được áp dụng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó. 4. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc đối tượng được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì vụ việc dân sự có liên quan đến cơ quan, tổ chức, cá nhân đó được giải quyết bằng con đường ngoại giao”.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 467 Bộ luật này cũng quy định: “2. Năng lực pháp luật TTDS của tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế được xác định trên cơ sở điều ước quốc tế là căn cứ để thành lập tổ chức đó, quy chế hoạt động của tổ chức quốc tế hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Trường hợp tổ chức quốc tế tuyên bố từ bỏ quyền ưu đãi, quyền miễn trừ thì năng lực pháp luật TTDS của tổ chức quốc tế đó được xác định theo pháp luật Việt Nam”.
Đặc biệt, điểm đ khoản 1 Điều 472 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định nếu bị đơn được hưởng quyền miễn trừ tư pháp thì Tòa án Việt Nam phải trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài mặc dù vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam.
Các quy định nêu trên của Bộ luật TTDS năm 2015 cũng mới chỉ dừng lại ở việc quy định có tính nguyên tắc về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ lãnh sự đối với các đối tượng được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao và trách nhiệm của Tòa án trong việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu bị đơn được hưởng quyền miễn trừ tư pháp. Nội hàm khái niệm “Quyền miễn trừ tư pháp” không chỉ liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Tòa án mà còn liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ của cơ quan THADS, trong khi đó điểm đ khoản 1 Điều 472 Bộ luật TTDS năm 2015 lại mới chỉ đề cập đến nhiệm vụ của Tòa án mà chưa quy định về nhiệm vụ của cơ quan THADS. Hiện nay, theo quy định của Luật THADS 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì hệ thống cơ quan THADS đã được thành lập từ trung ương xuống cấp huyện (Tổng cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp, Cục THADS cấp tỉnh và Chi cục THADS cấp huyện), là một hệ thống các cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng quản lý và tổ chức THADS trên phạm vi cả nước. Chấp hành viên cơ quan THADS là người được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong đó bao gồm việc áp dụng các biện cưỡng chế bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án. Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống tổ chức THADS hiện nay ở Việt Nam gắn bó chặt chẽ với sự hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án nhân dân. Theo các tài liệu nghiên cứu đã được công bố thì tính đến 01/7/1993, THADS ở Việt Nam đã có 43 năm hoặc do Thẩm phán thực hiện hoặc được đặt dưới sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp về chuyên môn nghiệp vụ và về tổ chức của ngành Tòa án mà trực tiếp là Chánh án (trong đó có 10 năm người tổ chức THA dân sự đồng thời là Thẩm phán - Thẩm phán vừa là người xét xử vừa là người tổ chức THA dân sự và 33 năm đơn vị THA trực thuộc sự quản lý của Tòa án). Kể từ thời điểm 01/7/1993 công tác THA dân sự đã được chuyển giao hoàn toàn từ Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ quản lý.7
3. Quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 về quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án. Để bảo đảm bao quát, dự báo được sự đa dạng của pháp nhân trong giao lưu dân sự, Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định ba loại pháp nhân cơ bản, đó là: (i) Pháp nhân thương mại (pháp nhân hoạt động vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận), được quy định tại Điều 75; (ii) Pháp nhân phi thương mại (pháp nhân hoạt động không vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên), được quy định tại Điều 76; và (iii) Pháp nhân công (bao gồm các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội),8 được quy định tại Chương V (từ Điều 98 đến Điều 100). Trong đó, pháp nhân công bình đẳng với cá nhân, pháp nhân khác khi tham gia các quan hệ dân sự; pháp nhân công chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản công được Nhà nước giao phải đúng mục đích, hiệu quả, theo đúng quy định của pháp luật; Nhà nước không chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ dân sự của pháp nhân công, trừ trường hợp luật có quy định khác.
Cụ thể, Điều 99 quy định trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự như sau: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của mình bằng tài sản mà mình là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, trừ trường hợp tài sản đã được chuyển giao cho pháp nhân theo quy định tại khoản 2 Điều này. 2. Pháp nhân do Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương thành lập không chịu trách nhiệm về nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ dân sự của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương. 3. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương không chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của pháp nhân do mình thành lập, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước, trừ trường hợp Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương bảo lãnh cho nghĩa vụ dân sự của pháp nhân này theo quy định của pháp luật. 4. Cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương không chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước khác ở trung ương, ở địa phương, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”.
Trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương trong quan hệ dân sự với một bên là nhà nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài được quy định như sau: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự do mình xác lập với nhà nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài trong trường hợp sau đây: a) Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về việc từ bỏ quyền miễn trừ; b) Các bên trong quan hệ dân sự có thỏa thuận từ bỏ quyền miễn trừ; c) Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương từ bỏ quyền miễn trừ. 2. Trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của nhà nước, cơ quan nhà nước của nước ngoài khi tham gia quan hệ dân sự với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương, pháp nhân, cá nhân Việt Nam được áp dụng tương tự khoản 1 Điều này”.9
So với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, quy định tại Chương V của Bộ luật dân sự năm 2015 là những nội dung hoàn toàn mới, tiến bộ đề cập đến trách nhiệm của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương khi tham gia các quan hệ dân sự với một bên là nhà nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài cũng như trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của nhà nước, cơ quan nhà nước của nước ngoài khi tham gia quan hệ dân sự với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương, pháp nhân, cá nhân Việt Nam. Quy định tại khoản 2 Điều 100 của Bộ luật dân sự 2015 cho thấy nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương với nhà nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài trong quan hệ dân sự đã được thiết lập.
 Bộ luật dân sự 2015 không quy định cụ thể về nội dung quyền miễn trừ bao gồm những quyền gì và được thực hiện trong những trường nào mà chỉ dẫn chiếu đến các điều ước quốc tế hoặc để ngỏ cho sự thỏa thuận giữa các bên khi thực hiện các giao dịch dân sự. Điều này có thể được hiểu là quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án sẽ được áp dụng theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc tùy theo sự thỏa thuận giữa các bên Việt Nam và các bên nước ngoài có liên quan trong từng quan hệ dân sự cụ thể.
Mặc dù vậy, Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về trách nhiệm của nhà nước đối với pháp nhân do mình thành lập, cụ thể khoản 3 Điều 99 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương không chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của pháp nhân do mình thành lập, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước, trừ trường hợp Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương bảo lãnh cho nghĩa vụ dân sự của pháp nhân này theo quy định của pháp luật”. Có thể nói, quy định này là một giải pháp dự phòng để giải quyết các trường hợp tranh chấp và THADS có thể sẽ xảy ra tương tự trong tương lai.
4. Quy định của Công ước của Liên hiệp quốc về miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản của quốc gia năm 2004. Công ước này được thông qua bởi Đại hội đồng Liên hiệp quốc vào ngày 02/12/2004. Đây là Công ước quốc tế quy định tập trung nhất các nội dung có liên quan đến quyền miễn trừ trong lĩnh vực tư pháp của quốc gia. Theo quy định tại Điều 28 và Điều 33, Công ước được để ngỏ cho tất cả các quốc gia ký từ ngày 17/01/2005 đến ngày 17/01/2007 tại trụ sở của Liên hiệp quốc ở New York. Đến nay, Công ước vẫn chưa có hiệu lực, mặc dù đã có 28 quốc gia ký kết và 21 nước phê chuẩn gia nhập. Quyền miễn trừ của quốc gia trong lĩnh vực tư pháp được quy định tại Công ước này gồm quyền miễn trừ tư pháp và quyền miễn trừ đối với tài sản thuộc quan hệ sở hữu của quốc gia. Quyền miễn trừ tư pháp gồm ba nội dung là miễn trừ tài phán tại bất cứ Tòa án quốc gia nào hay còn gọi là quyền miễn trừ xét xử được quy định tại Điều 5 và Điều 6 Công ước. Quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo đơn kiện, nếu quốc gia đồng ý cho tổ chức, cá nhân nước ngoài kiện mình, tức là đồng ý cho Tòa án nước ngoài xét xử vụ kiện mà quốc gia là bị đơn, được quy định tại Điều 18 Công ước và Quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo thi hành phán quyết của Tòa án trong trường hợp quốc gia đồng ý cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài khởi kiện cũng như đồng ý cho Tòa án xét xử vụ kiện đó, được quy định tại Điều 19 Công ước.
Theo đó, Điều 19 của Công ước này quy định như sau: Không có biện pháp cưỡng chế THA nào được thực hiện sau khi có phán quyết của Tòa án như áp dụng biện pháp tịch thu, bắt giữ, THA đối với tài sản một quốc gia liên quan đến thủ tục tố tụng được thực hiện trước Tòa án của quốc gia khác, trừ khi và ngoại trừ các trường hợp sau đây: a) Quốc gia đó đã thể hiện sự đồng ý thông qua: (1) Thỏa thuận quốc tế; (2) Thỏa thuận Trọng tài hoặc Hợp đồng bằng văn bản; hoặc (3) Bởi một tuyên bố trước Tòa án hoặc một thỏa thuận bằng văn bản sau khi phát sinh tranh chấp giữa các bên; hoặc b) Quốc gia đó đã giao hoặc cung cấp tài sản để thỏa mãn yêu cầu thi hành phán quyết của Tòa án; hoặc là c) Có cơ sở khẳng định rằng tài sản rõ ràng được sử dụng hoặc có ý định sử dụng cho quốc gia hơn là những mục đích phi thương mại của Chính phủ và tài sản đó nằm trong lãnh thổ của quốc gia thành viên, miễn là những biện pháp cưỡng chế THA sau khi có phán quyết của Tòa án chỉ có thể được thực hiện để tịch thu tài sản có mối liên hệ với các chủ thể có liên quan đến vụ tranh chấp./.
TS. Nguyễn Văn Nghĩa, Tổng cục THA dân sự, Bộ Tư pháp

 
1.Khoản 2 Điều 5 Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao năm 1993.
2.Khoản 3 Điều 5 Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao năm 1993.
3.Khoản 3 Điều 66 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014.
4.Điều 17. “1- Thành viên gia đình của viên chức ngoại giao không phải là công dân Việt Nam được hưởng những quyền ưu đãi, miễn trừ quy định tại các điều từ 10 đến 16 của Pháp lệnh này.
2- Nhân viên hành chính kỹ thuật và thành viên gia đình họ không phải là công dân Việt Nam hoặc không phải là người thường trú tại Việt Nam được hưởng những quyền ưu đãi, miễn trừ quy định tạicác điều từ 10 đến 15 của Pháp lệnh này; riêng quy định tại khoản 1 Điều 12 chỉ được áp dụng khi họ thực hiện chức năng chính thức. Họ còn được hưởng những ưu đãi, miễn trừ quy định tại khoản 1 Điều 16 của Pháp lệnh này đối với những đồ vật nhập khẩu để bố trí nơi ở lần đầu của họ.
3- Nhân viên phục vụ không phải là công dân Việt Nam hoặc không phải là người thường trú tại Việt Nam được hưởng những quyền miễn trừ khi thực hiện chức năng của họ và được miễn thuế và lệ phí đối với tiền lương của họ.
4- Người phục vụ riêng không phải là công dân Việt Nam hoặc không phải là người thường trú tại Việt Nam được miễn thuế và lệ phí đối với tiền công của họ.”
5.Khoản 3 Điều 13 Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao năm 1993.
6.Điều 84.
7.ThS. Nguyễn Văn Nghĩa, Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp, Lược sử hình thành và yêu cầu hoàn thiện Hệ thống tổ chức THA dân sự theo tinh thần cải cách tư pháp, website http://thads.moj.gov.vn/noidung/kyniem70nam/lists/tintucsukien/view_detail.aspx?itemid=140, trc. 03.04.2018.
8.Chính phủ, Tờ trình số 287/TT-CP ngày 15/08/2014 về Dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi).
9 Điều 100 Bộ luật dân sự năm 2015.