1. Tiếp tục quán triệt thực hiện nghiêm, hiệu quả Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án và Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 15/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án hành chính, trong đó, đề nghị người đứng đầu bộ, ngành, địa phương thực hiện nghiêm trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cá nhân là người phải thi hành án và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án.
2. Rà soát, tổ chức thi hành, chỉ đạo tổ chức thi hành dứt điểm các bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính đã có hiệu lực nhưng chưa được thi hành xong mà người phải thi hành án là cá nhân, tổ chức thuộc thẩm quyền quản lý, nhất là những bản án đã kéo dài nhiều năm hoặc đã có quyết định buộc thi hành án hành chính của Tòa án. Đối với những bản án, quyết định có khó khăn, vướng mắc, đề nghị chủ động phối hợp với Bộ Tư pháp, các bộ, ngành có liên quan để báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
3. Chỉ đạo kiểm tra, xem xét và xử lý trách nhiệm đối với cá nhân, tổ chức thuộc thẩm quyền quản lý vi phạm nghĩa vụ thi hành án hành chính theo đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Nghị định số 71/2016/NĐ-CP và Chỉ thị số 26/CT-TTg, nhất là đối với những bản án đã tồn đọng nhiều năm chưa thi hành xong.
4. Theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, đề nghị phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp trong công tác thi hành án hành chính, nhất là những nội dung được đề nghị phối hợp tại Kế hoạch công tác thi hành án hành chính năm 2022 (ban hành kèm theo Quyết định số 110/QĐ-BTP ngày 26/01/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã được gửi đến các bộ, ngành và địa phương) và tại Văn bản số 1362/VPCP-V.I ngày 03/3/2022 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh về việc thực hiện Kế hoạch giám sát số 389/KH-UBTP15 ngày 22/02/2022 của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội.
5. Đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố: Bắc Ninh, Bình Định, Đồng Nai, Đồng Tháp, Hải Dương, Phú Thọ, Phú Yên, Trà Vinh, Vĩnh Long căn cứ tình hình thực tế ở địa phương, có văn bản phân công cho một cơ quan tham mưu giúp Ủy ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý công tác thi hành án hành chính theo quy định tại Điều 34 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP, đồng thời thông báo về Bộ Tư pháp để tổng hợp và chủ động phối hợp trong công tác (nội dung này đã được Bộ Tư pháp đề nghị tại Công văn số 2340/BTP-TCTHADS ngày 15/7/2021).
6. Chỉ đạo thông tin kịp thời kết quả thi hành án cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm và cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án đó theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 311 Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Định kỳ 06 tháng, 10 tháng và hàng năm gửi báo cáo công tác thi hành án hành chính về Bộ Tư pháp theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp tại Công văn số 2340/BTP-TCTHADS ngày 15/7/2021 để tổng hợp, báo cáo Chính phủ, báo cáo Quốc hội theo quy định.
Ngoài việc gửi đến các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Công văn số 824/BTP-TCTHADS nêu trên của Bộ Tư pháp cũng được gửi đến Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để thực hiện.
Việc Bộ Tư pháp ký ban hành Công văn số 824/BTP-TCTHADS ngày 22/3/2022 gửi đến các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị quan tâm, phối hợp, chỉ đạo đối với công tác thi hành án hành chính nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhà nước, xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước trong việc chấp hành pháp luật thi hành án hành chính và nâng cao hiệu lực, hiệu quả đối với công tác quản lý về thi hành án hành chính.
Nguyễn Thanh Nam, Vụ Nghiệp vụ 3, Tổng cục Thi hành án dân sự