DỰ THẢO LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ (SỬA ĐỔI) DỰ KIẾN TRÌNH QUỐC HỘI THÔNG QUA VÀO KỲ HỌP THÁNG 10/2025 ĐẢM BẢO THỂ CHẾ HÓA CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, HỢP HIẾN, HỢP PHÁP, THỐNG NHẤT VỚI HỆ THỐNG PHÁP LUẬT

26/08/2025


Ngày 21/7/2025, trên cơ sở xem xét Tờ trình kèm theo Hồ sơ dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) của Bộ Tư pháp, Chính phủ đã có Tờ trình số 641/TTr-CP trình Quốc hội dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi). Theo đó, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội sự cần thiết, mục đích, quan điểm xây dựng, quá trình xây dựng, nội dung, bố cục dự án Luật, trong đó, có nội dung báo cáo về kết quả rà soát dự thảo Luật với các chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật và các điều ước có liên quan. Kết quả rà soát cho thấy, dự thảo Luật đã cơ bản đáp ứng yêu cầu thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, nhất là chủ trương đổi mới tổ chức, xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự; xây dựng quy trình tổ chức thi hành án theo hướng chuyên nghiệp, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả. Dự thảo cũng được xác định là phù hợp với Hiến pháp, đảm bảo quyền con người, quyền công dân, quyền tài sản và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng, hành chính và dân sự. Bên cạnh đó, dự thảo được đánh giá là thống nhất và không mâu thuẫn với các luật chuyên ngành có liên quan, đồng thời có tính khả thi cao nhờ được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Luật Thi hành án dân sự hiện hành, tiếp thu đầy đủ ý kiến của các bộ, ngành, địa phương và người dân, doanh nghiệp.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin thông tin một số nội dung, kết quả rà soát dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi), cụ thể như sau:
Trong quá trình xây dựng dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi), Bộ Tư pháp đã nghiêm túc nghiên cứu, rà soát và tiếp thu đầy đủ, kịp thời các chủ trương, đường lối, chính sách lớn của Đảng, đặc biệt là các Nghị quyết, Kết luận, Chỉ thị của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện thể chế, đổi mới tổ chức bộ máy và chuyển đổi số. Các nội dung đó đã được thể chế hóa rõ ràng, toàn diện, có hệ thống trong các điều khoản của dự thảo luật. Đồng thời, đảm bảo phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như Bộ luật Tố tụng dân sự; Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật Trọng tài thương mại; Luật Cạnh tranh; Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án; Luật Giao dịch điện tử; Luật Tư pháp người chưa thành niên; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân; Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân và các văn bản khác liên quan.
- Trước hết, Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đặt ra yêu cầu về việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, cũng như từng bước xã hội hóa hoạt động tư pháp, trong đó có thi hành án dân sự. Đáp ứng yêu cầu này, dự thảo Luật đã thiết kế một chương riêng về Văn phòng thi hành án dân sự và Thừa hành viên. Thay vì tiếp tục quy định rải rác về Thừa phát lại như trong Nghị định số 08/2020/NĐ-CP, dự thảo Luật đã: (i) đổi tên Văn phòng Thừa phát lại, Thừa phát lại đang được quy định tại Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ thành Văn phòng thi hành án dân sự và Thừa hành viên; (ii) Về thẩm quyền của Thừa hành viên: Thừa hành viên có quyền xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu; trường hợp đương sự cung cấp kết quả xác minh điều kiện thi hành án do Thừa hành viên thực hiện thì Chấp hành viên không cần thực hiện lại việc xác minh, trừ trường hợp thấy cần thiết phải xác minh lại; Thông báo về THADS; Trực tiếp tổ chức thi hành các loại việc theo yêu cầu; Các công việc khác theo quy định của Chính phủ; (iii) Khi tổ chức thi hành án, Trưởng Văn phòng thi hành án dân sự, Thừa hành viên, có nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản như Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên, trừ các nhiệm vụ, quyền hạn sau: xử phạt vi phạm hành chính; sử dụng công cụ hỗ trợ; trường hợp áp dụng biện pháp cưỡng chế cần huy động lực lượng thì phải được cơ quan có thẩm quyền cho ý kiến trước khi ban hành quyết định cưỡng chế thi hành án. Việc xác lập chức năng, nhiệm vụ cụ thể và khung pháp lý đầy đủ cho Thừa hành viên vừa góp phần xã hội hóa hoạt động thi hành án, vừa giảm tải cho bộ máy nhà nước, phù hợp với định hướng cải cách tư pháp mà Đảng đã xác lập.
- Căn cứ Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 28-NQ/TW, Kết luận số 162-KL/TW ngày 06/6/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về Đề án tiếp tục sắp xếp, tinh gọn bộ máy hệ thống THADS bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả, dự thảo Luật quy định hệ thống THADS và Văn phòng THADS (Điều 9) như sau: Hệ thống THADS bao gồm: (1) Cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng; 34 cơ quan THADS tỉnh, thành phố (trong đó có 355 Phòng THADS khu vực) và cơ quan thi hành án cấp quân khu. Các Phòng THADS khu vực được đặt tương đồng, thống nhất với 355 Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân khu vực (thống nhất về số lượng, thống nhất về phạm vi thẩm quyền hoạt động, thống nhất về địa điểm đặt trụ sở, tương đồng về tên gọi) phù hợp với Luật Tổ chức tòa án nhân dân (sửa đổi) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi, bổ sung); (2) Văn phòng THADS là tổ chức hành nghề của Thừa hành viên, có chức năng tổ chức THADS và thực hiện các công việc khác theo quy định của pháp luật. Việc phân định rõ thẩm quyền giữa cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan tổ chức thi hành án; giữa Chấp hành viên và Thừa hành viên đã góp phần thực hiện phân cấp, phân quyền hợp lý, tăng cường trách nhiệm giải trình, khắc phục tình trạng chồng chéo, dàn trải trong tổ chức bộ máy thi hành án hiện nay.
- Về tính tương thích với Hiến pháp, Dự thảo Luật đã thể chế hóa nhiều nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp như nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo đảm quyền tiếp cận công lý, quyền bình đẳng và minh bạch, thể hiện rõ trong các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thi hành án dân sự, nguyên tắc tôn trọng bản án, quyết định của Tòa án và bảo đảm giám sát của các cơ quan nhà nước. Đồng thời, Dự thảo cũng bảo đảm nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan thi hành án, Tòa án, Viện kiểm sát và các cơ quan phối hợp, góp phần cụ thể hóa nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước.
- Dự thảo Luật bảo đảm sự phù hợp và thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật liên quan như: bổ sung phạm vi bản án, quyết định được tổ chức thi hành phù hợp với quy định tại Luật Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Trọng tài thương mại, Luật Cạnh tranh, Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án, Luật Giao dịch điện tử, Luật Tư pháp người chưa thành niên. Dự thảo Luật cũng thể hiện rõ sự tương thích với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Cơ chế phối hợp, trách nhiệm giữa các cơ quan này với cơ quan thi hành án được quy định đầy đủ, cụ thể.
Dự thảo Luật đã tính đến các đạo luật chuyên ngành như Luật Cạnh tranh, Luật Phá sản và Luật Trọng tài thương mại. Các quy định về bản án, quyết định được thi hành bao gồm cả phán quyết của Hội đồng trọng tài, quyết định của cơ quan giải quyết cạnh tranh, quyết định trong quá trình phá sản… thể hiện sự cập nhật với các hình thức giải quyết tranh chấp đa dạng trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, vẫn cần rà soát kỹ hơn cơ chế phối hợp giữa cơ quan thi hành án với Tòa án, cơ quan giải quyết phá sản, trọng tài thương mại để xử lý triệt để các xung đột có thể phát sinh liên quan đến quyền ưu tiên, phân chia tài sản và quyền lợi của các bên liên quan.
Bên cạnh đó, thực hiện Kế hoạch triển khai Kết luận số 87-KL/TW ngày 13/7/2024 của Bộ Chính trị về Đề án “Xây dựng cơ chế xử lý vật chứng, tài sản bị tạm giữ, kê biên, phong tỏa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, vụ việc” , kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội , nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác quản lý kho vật chứng của cơ quan THADS, dự thảo đã sửa đổi điểm đ khoản 1 Điều 90 Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng: Vật chứng đưa về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo quản thì cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm bảo quản trong tất cả các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Đồng thời, sửa đổi quy định tại các Điều 122, 123, 124, 125 Luật THADS hiện hành để thống nhất với nội dung sửa đổi đ khoản 1 Điều 90 Bộ luật Tố tụng hình sự nêu trên.
- Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định thời hạn cho hầu hết các thủ tục thi hành án. Qua rà soát, tổng số thời gian tổ chức thi hành xong một vụ việc với đầy đủ các thủ tục, tình huống pháp lý từ khi ra quyết định thi hành án đến khi kết thúc vẫn còn dài, chi phí còn cao. Trong bối cảnh Đảng yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhất là yêu cầu về “rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí” thể hiện trong Nghị quyết số 27-NQ/TW và các văn kiện Đại hội XIII, dự thảo Luật đã có những sửa đổi mạnh mẽ theo hướng tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả, công khai, minh bạch trong thi hành án dân sự. Đáng chú ý, dự thảo đã rà soát toàn bộ trình tự, thủ tục thi hành án để rút ngắn thời gian tổ chức thi hành khoảng 30%. Đồng thời, chi phí tổ chức thi hành án cũng được giảm khoảng 13% nhờ cắt giảm các khâu trung gian, đơn giản hóa quy trình, chuyển sang phương thức điện tử, rút ngắn các mốc thời gian như thông báo, ưu tiên thanh toán, xác minh điều kiện thi hành án định kỳ. Điều này thể hiện nỗ lực thực chất trong cải cách hành chính, cắt giảm thủ tục rườm rà, gây phiền hà cho người dân.
- Bên cạnh đó, một điểm nổi bật là dự thảo Luật đã tích cực thể chế hóa các yêu cầu tại Nghị quyết số 57-NQ/TW về chuyển đổi số quốc gia. Cụ thể, dự thảo đã bổ sung nguyên tắc ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong toàn bộ hoạt động thi hành án dân sự. Quy định về thông báo thi hành án qua phương tiện điện tử, thanh toán tiền qua chuyển khoản, sử dụng mã định danh cá nhân, tích hợp cơ sở dữ liệu thi hành án trên môi trường số là những bước đi cụ thể, hiện đại, hướng đến hình thành một nền hành chính công minh bạch, minh bạch và phục vụ tốt hơn người dân. Những quy định này phù hợp với Luật Công nghệ thông tin, Luật Giao dịch điện tử năm 2023, Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2023, Luật Dữ liệu năm 2024,…
- Thể chế hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW, Quy định số 183-QĐ/TW, đồng thời, bảo đảm thống nhất, đồng bộ với các Luật liên quan[1], dự thảo đã bổ sung các quy định về bảo đảm hoạt động THADS, cụ thể như sau: Nhà nước bảo đảm biên chế, kinh phí, trụ sở làm việc, kho vật chứng, công cụ hỗ trợ thi hành án, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và phương tiện, trang thiết bị cần thiết khác cho cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự; xây dựng, quản lý, vận hành cơ sở dữ liệu về thi hành án dân sự. Khoản phí thi hành án dân sự và các khoản thu hợp pháp khác của cơ quan thi hành án dân sự được cân đối đầy đủ vào ngân sách nhà nước. Sau khi nộp ngân sách nhà nước, khoản phí thi hành án dân sự và các khoản thu hợp pháp khác được bố trí cho cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự tương ứng với các nhiệm vụ chi để tăng cường, hiện đại hóa cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị, chuyển đổi số, an toàn thông tin mạng và hoạt động nghiệp vụ đặc thù phục vụ công tác quản lý thi hành án dân sự, công tác thi hành án dân sự theo quy định của Chính phủ; Người thi hành công vụ trong hoạt động thi hành án được bảo vệ uy tín, danh dự, nhân phẩm, bí mật, an toàn thông tin, dữ liệu cá nhân, tính mạng, sức khoẻ, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
- Không chỉ chú trọng hiệu quả công vụ, dự thảo Luật còn tiếp thu tinh thần của Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Các điều luật mới được bổ sung như: hành vi bị nghiêm cấm trong THADS, chế tài đối với việc không trả lời kiến nghị đúng thời hạn, quy trình xử lý cưỡng chế tài sản có giá trị lớn, đều nhằm nâng cao trách nhiệm pháp lý, hạn chế nguy cơ lạm quyền, né tránh trách nhiệm. Đặc biệt, lần đầu tiên, dự thảo Luật quy định cụ thể việc bảo vệ người thi hành công vụ trong lĩnh vực thi hành án, phù hợp với tinh thần của Quy định số 183-QĐ/TW. Theo đó, Nhà nước bảo đảm an toàn về thể chất, danh dự, vị trí công tác, dữ liệu cá nhân và các quyền hợp pháp khác cho người thi hành công vụ, đồng thời đầu tư phương tiện, trang thiết bị, kho vật chứng phục vụ công tác cưỡng chế và bảo vệ tài sản.
- Liên quan đến công tác thu hồi tài sản tham nhũng, tiêu cực – một nội dung được Đảng đặc biệt quan tâm, dự thảo Luật đã có những sửa đổi và bổ sung kịp thời theo tinh thần Chỉ thị số 04-CT/TW và các báo cáo của Ban Nội chính Trung ương. Những quy định mới về xử lý tài sản kê biên, phong tỏa, ưu tiên thanh toán các khoản sung công quỹ, rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục cưỡng chế, cũng như đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản ở nước ngoài, đều là những giải pháp mang tính chiến lược, nâng cao khả năng thu hồi tài sản nhà nước, tăng hiệu lực thi hành các bản án hình sự về tham nhũng.
- Cuối cùng, việc thể chế hóa các định hướng của Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng pháp luật được thể hiện rõ trong kỹ thuật lập pháp của dự thảo. Dự thảo Luật đã rút gọn số chương từ 9 xuống 5, số điều từ 180 xuống còn 96 điều, lược bỏ các quy định chi tiết giao Chính phủ quy định tại nghị định. Đây là cách tiếp cận hiện đại, chỉ giữ lại các nguyên tắc, khung pháp lý chung, giao thẩm quyền cho Chính phủ để điều chỉnh kịp thời với tình hình thực tiễn, đảm bảo sự linh hoạt, ổn định và khả thi cao trong thi hành.
Tổng thể, Dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) đã thể hiện rõ nỗ lực trong việc đảm bảo tính tương thích với Hiến pháp, phù hợp với các đạo luật về tố tụng, tổ chức bộ máy, doanh nghiệp và các luật chuyên ngành có liên quan. Tuy nhiên, để tăng cường tính đồng bộ và khả thi trong thực thi pháp luật, cần cẩn trọng, tiếp tục rà soát, đối chiếu với các văn bản hướng dẫn thi hành, đồng thời tiếp tục xây dựng các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Luật để đảm bảo áp dụng thống nhất, đồng bộ, khả thi trên thực tế./.
 
[1] Điều 90 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 485 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 7 Luật Ngân sách Nhà nước.