Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang họp mặt chào mừng Ngày truyền thống Thi hành án dân sự ngày 19/7.

30/07/2013
Ngày 19/7/2013, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang tổ chức buổi pọp mặt chào mừng Ngày truyền thống Thi hành án dân sự 19/7. Tham dự buổi họp có lãnh đạo Cục và toàn thể cán bộ, công chức thuộc Cục.

Mở đầu buổi họp, Phó Cục trưởng Nguyễn Văn Vũ đại diện Ban lãnh đạo Cục có bài phát biểu ôn lại truyền thống ngành Thi hành án dân sự và những chuyển biến, cũng như kết quả đã đạt được trong thời gian qua của ngành Thi hành án dân sự nói chung và Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang nói riêng.

Ghi nhận thành tích vẻ vang của ngành Thi hành án dân sự và động viên các thế hệ cán bộ, công chức và người làm công tác thi hành án dân sự tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, ngày 5/3/2013, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 397/QÐ-TTg lấy ngày 19/7 hàng năm là "Ngày Truyền thống Thi hành án dân sự", đánh dấu chặng đường lịch sử 67 năm hình thành và phát triển của ngành Thi hành án dân sự.

Đây là dịp quan trọng để các thế hệ cán bộ, công chức và người làm công tác thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước tổ chức ôn lại truyền thống vẻ vang và động viên khích lệ cán bộ, công chức nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, tiếp thu, kế thừa và phát huy truyền thống, đề ra những phương hướng, giải pháp mới, sáng tạo, hiệu quả nhằm xây dựng ngành Thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với ngành Thi hành án dân sự:

Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Nước Việt Nam dân chủ Cộng Hòa ra đời, hệ thống các cơ quan nhà nước được thiết lập trên phạm vi cả nước. Trên cơ sở Sắc lệnh ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc tạm thời áp dụng các Luật hiện hành của chế độ cũ với điều kiện “không trái với nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”.

Viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho công tác thi hành án dân sự của Nhà nước ta là Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 01 năm 1946 của Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa về tổ chức Tòa án và ngạch Thẩm phán. Tại Khoản 3, Điều 3 Sắc lệnh này quy định: “Ban Tư pháp xã có quyền thi hành những mệnh lệnh của Thẩm phán cấp trên”, có nghĩa là Ban Tư pháp xã có quyền thi hành bản án, quyết định của Thẩm phán.

Ngày 22 tháng 5 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 28/SL về cải cách Bộ máy Tư pháp, tố tụng và hoạt động tư pháp, trong đó có công tác thi hành án dân sự. Điều 19 Sắc lệnh quy định “Thẩm phán dưới sự kiểm soát của Biện lý có nhiệm vụ đem các án hình về các khoản bồi thường hay bồi hoàn các án hộ mà chính Tòa án huyện hoặc Tòa án cấp trên tuyên, việc phát mại bất động sản và phân phối tiền bán được cũng do Tòa án huyện phụ trách, trong trường hợp có nhiều bất động sản rải rác ở nhiều huyện khác nhau thì biện lý sẽ chỉ định một Thẩm phán huyện để việc phát mại đó vừa có lợi cho chủ nợ lẫn người mắc nợ”. Từ đó,  cho thấy việc tổ chức thi hành án dân sự do Ban Tư pháp xã được thực hiện trước đây được thay thế bằng Thẩm phán dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Sắc lệnh này cho thấy Tư tưởng Hồ Chí Minh trong cải cách Tư pháp có sự vượt bậc làm thay đổi cơ bản trong Tổ chức và hoạt động của Thi hành án dân sự. Việc thi hành án dân sự là trách nhiệm của Nhà nước, Tòa án chủ động thi hành án dân sự mà không chờ đợi yêu cầu của người được thi hành án.

Trên cơ sở Hiến pháp 1959, Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960. Trong đó, Điều 24 quy định “Tại các tòa án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những Bản án và Quyết định về dân sự, những khoản về bồi thường và tài sản trong các Bản án và Quyết định về hình sự”. Vấn đề vị trí, chức năng nhiệm vụ của nhân viên chấp hành án được xác định rõ trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Từ đây cho thấy chức danh chấp hành án đã được thể hiện trong một văn bản pháp luật.

Có thể nói ngay từ những năm đầu của Chính quyền Cách mạng, mặc dù phải đương đầu với nhiều khó khăn, thù trong giặc ngoài, phải diệt giặc dốt, giặc đói, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vậy mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn quan tâm đến hoạt động của Tổ chức Tư pháp, không ngừng xây dựng, kiện toàn và phát huy hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền “Của dân, do dân và vì dân” trong đó có công tác Thi hành án dân sự. 

Nối tiếp Tư tưởng của người, ngày 13 tháng 10 năm 1972 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra Quyết định số 186/TC quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên, đến thời điểm này thì chức danh chấp hành viên đã được hình thành cho đến nay.

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 đã giao Bộ Tư pháp quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt Tổ chức. Nghị định 143/HĐBT ngày 22 tháng 11 năm 1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và Tổ chức của Bộ Tư pháp: “Bộ Tư pháp có chức năng quản lý công tác thi hành án dân sự”. Tòa án nhân dân tối cao đã giao nhiệm vụ quản lý công tác thi hành án dân sự cho Bộ Tư pháp bắt đầu từ ngày 01 tháng 10 năm 1982.

Ngày 28 tháng 8 năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự đầu tiên được ban hành, có 7 chương và 43 điều. Đây cũng là lần đầu tiên vị trí, vai trò của chấp hành viên được Nhà nước trao quyền tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã được thừa nhận một cách chính thức bằng một văn bản chuyên ngành.

Hiến pháp 1992 được ban hành làm cơ sở cho việc cải tổ các cơ quan Nhà nước nói chung và cơ quan Tư pháp nói riêng. Đây cũng là nền móng cho sự ra đời của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993. Pháp lệnh này đã làm thay đổi cơ bản về tổ chức và hoạt động của thi hành án dân sự. Về tổ chức thì được tách ra thành một cơ quan Nhà nước độc lập, về hoạt động thì việc ra quyết định thi hành án thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án.

Với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội Chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước đã đặt ra cho công tác thi hành án phải có sự đổi mới tương ứng. Ngày 14 tháng 01 năm 2004, tại phiên họp thường kỳ thứ 15 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Thi hành án năm 2004.

Để cho công tác Thi hành án dân sự ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ và phù hợp với yêu cầu của công tác cải cách Tư pháp theo Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị. Tại kỳ hợp thứ 4 Quốc hội Khóa XII ngày 14 tháng 11 năm 2008, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Thi hành án dân sự gồm 9 Chương và 183 Điều,  chứa đựng nhiều đổi mới và hứa hẹn nhiều thay đổi có tính đột phá trong hoạt động của thi hành án dân sự ngang tầm với sự phát triển của thời đại.

Những thành tựu đã đạt được của các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang:

Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo Bộ Tư pháp, sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, ngành Thi hành án dân sự đã trở thành Ngành quan trọng trong tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là lực lượng không thể thiếu của hệ thống thực thi pháp luật, có đội ngũ ngày càng lớn mạnh, chuyên nghiệp, với các chức danh Tư pháp độc lập và có hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương theo yêu cầu của công cuộc cải cách Tư pháp. Vị thế của ngành Thi hành án dân sự đã được nâng lên, công tác thi hành án dân sự ngày càng chuyển biến rõ rệt, hiệu quả công tác thi hành án dân sự ngày càng được nâng cao và đi vào ổn định. Sự phát triển của ngành Thi hành án dân sự trong những năm qua được ghi nhận qua những thành tựu nổi bật sau đây:

1. Kết quả thực hiện các chủ trương của Đảng trong lĩnh vực Thi hành án dân sự, hành chính.

- Được sự quan tâm chỉ đạo của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, việc duy trì đều đặn hoạt động của Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự các cấp. Nhờ đó, những vụ án phức tạp đều được giải quyết không còn lúng túng như trước đây. Qua chỉ đạo của Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự, việc phối hợp của các ban, ngành chức năng, chính quyền địa phương và tổ chức đoàn thể, với sự nỗ lực quyết tâm của đội ngũ cán bộ, chấp hành viên từng bước khắc phục khó khăn đẩy mạnh công tác thi hành án dân sự, kết quả hàng năm tỷ lệ thi hành đạt và vượt chỉ tiêu Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự giao, góp phần giữ vững tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

- Một số quy định của pháp luật về thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung đầy đủ và chặt chẽ hơn về trình tự, thủ tục, điều chỉnh kịp thời những phát sinh trong quan hệ xã hội, phù hợp với điều kiện thực tế;

- Đội ngũ cán bộ, chấp hành viên được nâng lên cả về số lượng và chất lượng. Phong trào thi đua của toàn ngành tiếp tục được duy trì tốt, đã có nhiều tập thể và cá nhân đạt thành tích cao trong công tác cũng như trong các đợt cao điểm giải quyết án, tạo phong trào thi đua lập thành tích trong toàn ngành.

- Thường xuyên quan tâm công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong nội bộ ngành; Tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật sâu rộng trong quần chúng nhân dân, từ đó đa số những trường hợp người phải thi hành án đều tự giác chấp hành, hạn chế áp dụng biện pháp cưỡng chế.

- Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo đã đi vào nề nếp, toàn tỉnh đã có nhiều cố gắng, xem xét, giải quyết dứt điểm, đúng thẩm quyền và thời hạn quy định, không để đơn tồn đọng.

2. Đội ngũ cán bộ, công chức Thi hành án dân sự ngày càng được tăng cường, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ được giao

Năm 1993 - 2003, cấp tỉnh có Phòng Thi hành án trực thuộc Sở Tư pháp; cấp huyện có Đội Thi hành án trực thuộc Phòng Tư pháp. Trong giai đoạn này công tác tổ chức còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng, toàn tỉnh có 79 cán bộ, công chức công tác trong ngành thi hành án.

Năm 2004 - 2008, cấp tỉnh có Thi hành án dân sự tỉnh, cấp huyện có Thi hành án dân sự huyện. Giai đoạn này công tác tổ chức cán bộ được nâng lên một bước và từng bước đi vào nề nếp. Toàn tỉnh có 138 cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự.

Giai đoạn 2009 đến nay, cấp tỉnh có Cục Thi hành án dân sự, cấp huyện có Chi cục Thi hành án dân sự. Công tác tổ chức nhân sự cơ quan Thi hành án dân sự luôn được sự quan tâm của Bộ Tư pháp - Tổng cục Thi hành án dân sự, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh đã bố trí, điều chuyển công tác, bổ nhiệm kịp thời để cơ quan Thi hành án dân sự hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu, kế hoạch đề ra.

Việc phân công cán bộ, công chức tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chấp hành viên, thư ký thi hành án và các lớp nghiệp vụ khác để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Phân bổ đủ chỉ tiêu nhân sự cho cơ quan Thi hành án dân sự đảm bảo hoạt động theo chỉ tiêu từng năm.

Tổng biên chế trên địa bàn tỉnh giai đoạn này là 191/191 đồng chí. Bố trí đủ các Trưởng, Phó Trưởng phòng chuyên môn thuộc Cục Thi hành án dân sự và lãnh đạo của 15 Chi cục Thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu.

3. Về kết quả thi hành án

Kết quả thi hành án thực hiện theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự từ năm 1993 -2003:

Tổng số việc phải thi hành là 83.873 việc.

Tỷ lệ thi hành xong bình quân hàng năm đạt 71%.

Kết quả thi hành án thực hiện theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự từ năm 2004 - 2008:

Tổng số việc phải thi hành là 58.951 việc.

Tỷ lệ thi hành xong bình quân hàng năm đạt 67%.

Kết quả thi hành án thực hiện theo Luật Thi hành án dân sự từ năm 2009 - 31/12/2012:

Tổng số việc phải thi hành là 54.761 việc, (số thụ lý mới 35.346 việc).

Tỷ lệ thi hành xong bình quân hàng năm đạt 90%.

4. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo

Công tác tiếp công dân, phân loại xử lý đơn, thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thường xuyên nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo và được tổ chức thực hiện có nề nếp, số lượng đơn thư khiếu nại tố cáo về thi hành án dân sự đã giảm dần, một số vụ việc khiếu nại phức tạp, kéo dài từ nhiều năm trước được tập trung giải quyết dứt điểm, không để xảy ra tình trạng khiếu nại đông người, giảm đáng kể vụ việc tồn đọng phức tạp, kéo dài, hạn chế vụ việc phát sinh mới.

Không ngừng nâng cao chất lượng công tác chỉ đạo, tập trung phân loại án, giải quyết án chuyển kỳ sau. Kiểm tra việc xử lý án đúng quy trình nghiệp vụ chuyên môn, hạn chế thấp nhất tình trạng khiếu nại, tố cáo xảy ra.

5. Về cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí, phương tiện hoạt động           

Kinh phí được quản lý chặt chẽ, không để xảy ra tình trạng sai phạm; Thực hiện việc quyết toán đúng thời gian quy định và được công khai hóa theo đúng quy định. Thực hiện tốt chế độ quản lý thu, chi tiền thi hành án, xuất nhập vật chứng tuân thủ theo Chế độ kế toán do Bộ Tư pháp ban hành.

Bộ Tư pháp - Tổng cục Thi hành án dân sự đã quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí đảm bảo hoạt động của cơ quan Thi hành án dân sự địa phương như việc xây dựng trụ sở Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang năm 2005; Trụ sở cơ quan Thi hành án dân sự các huyện và các kho vật chứng… để phục vụ cho công tác chuyên môn ngày càng tốt hơn.

Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ và ứng dụng công nghệ thông tin, tin học hóa trong công tác thi hành án dân sự, phục vụ kịp thời, thông suốt trong thực hiện nhiệm vụ báo cáo thống kê, thực hiện các ý kiến chỉ đạo, quản lý của ngành trong quá trình thực thi nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình mới.

6. Công tác kiểm tra về thi hành án dân sự

Ngay từ năm 1993, khi nhận nhiệm vụ quản lý tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự, Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang luôn xem công tác kiểm tra đối với hoạt động thi hành án dân sự là nhiệm vụ quan trọng nhằm bảo đảm công tác thi hành án dân sự được thực hiện đúng pháp luật, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và hạn chế những sai sót phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành án.

Hàng năm, tiến hành các đợt kiểm tra định kỳ, đột xuất theo đúng chức năng, nhiệm vụ đối với hoạt động thi hành án dân sự và đã thu được nhiều kết quả tích cực, kịp thời phát hiện những sai sót để kiến nghị những biện pháp khắc phục, phòng ngừa và xử lý kịp thời không để sai phạm vốn xảy ra.

Kết thúc bài phát biểu, Phó Cục trưởng Nguyễn Văn Vũ gửi lời chúc tốt đẹp cùng lời kêu gọi đến toàn thể cán bộ, công chức đoàn kết một lòng hăng say lao động, sáng tạo trong công việc, vượt qua những khó khăn, thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2013.

Võ Thị Ngọc Diễm

Cục THADS tỉnh Kiên Giang