Nguyễn Thị Oanh, là kế toán Công ty cổ phần vận tải Thái Nguyên, có 01 chồng và 02 con. Lợi dụng chức vụ được giao, trong thời gian từ năm 1993 đến năm 2005, Oanh đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của Công ty cổ phần vận tải Thái Nguyên số tiền 1.441.158.900đ. Bản án hình sự sơ thẩm số 255/2006/HSST ngày 12/12/2006, Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị Oanh, sinh năm 1963, trú tại tổ 01, phường Tân Lập, TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên ( nguyên là kế toán Công ty cổ phần vận tải Thái Nguyên ) mức án 15 năm tù giam về tội Tham ô tài sản theo điều 278 Bộ luật Hình sự. Về trách nhiệm dân sự: buộc bị cáo Oanh phải bồi thường 1.441.158.000đ, đã bồi thường 100.000.000đ, phải bồi thường tiếp số tiền 1.341.158.000đ cho Công ty cổ phần vận tải Thái Nguyên. Việc thi hành án thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC. Áp dụng điều 146 Bộ luật tố tụng hình sự: Kê biên ½ giá trị ngôi nhà và quyền sử dụng đất trên diện tích 130m2 của bị cáo Nguyễn Thị Oanh.
Sau khi nhận được bản án có hiệu lực pháp luật và đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh T đã thụ lý, ra quyết định thi hành án và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành vụ việc trên. Chấp hành viên đã tiến hành đầy đủ các biện pháp, trình tự theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Do người phải thi hành án không tự nguyện thi hành và ngôi nhà của gia đình bà Oanh là một thể thống nhất, nếu chia tách sẽ làm giảm trị giá tài sản nên Chấp hành viên tiến hành kê biên toàn bộ nhà và quyền sử dụng đất của người phải thi hành án; bán đấu giá thành toàn bộ tài sản được 780.300.000đ; đã xử lý ½ số tiền này thuộc sở hữu của người phải thi hành án để đảm bảo thi hành án theo đúng bản án của Toà án, cụ thể là số tiền 390.150.000đ. Số tiền còn lại là 390.150.000đ lẽ ra trả lại cho ông Lê Quyết Thắng - chồng của Nguyễn Thị Oanh nhưng do chồng bà Oanh đã chết nên Chấp hành viên xác định bà Oanh được hưởng 1/3 di sản thừa kế của chồng, ước tính số tiền là 130.050.000đ và tiến hành kê biên để thi hành án, phần còn lại trả cho gia đình bà Oanh.
Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh đã ra quyết định thu hồi Quyết định kê biên tài sản, khoản phải thu hồi là số tiền ước tính hưởng di sản thừa kế 130.050.000đ với lý do bản án đã xác định bị cáo Oanh chỉ có quyền sở hữu giá trị ½ ngôi nhà và quyền sử dụng đất nên cơ quan thi hành án kê biên, bán đấu giá toàn bộ ngôi nhà và đất nhưng chỉ xử lý ½ gía trị ngôi nhà là phù hợp. Hơn nữa, người phải thi hành án là Nguyễn Thị Oanh đang chấp hành án phạt tù, chồng bà Oanh đã chết, 02 con của bà Oanh đều đang ở độ tuổi vị thành niên. Vì vậy, trả lại cho gia đình bà Oanh ½ trị giá ngôi nhà và quyền sử dụng đất, chỉ xử lý tài sản kê biên theo đúng quyết định của Toà án đã kê biên.
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp đã ban hành Quyết định số 90/QĐ-KSTHADS, ngày 11/8/2009 kháng nghị Quyết định thu hồi quyết định kê biên tài sản với lý do việc kê biên tài sản ước tính của bà Nguyễn Thị Oanh được hưởng di sản thừa kế là đúng quy định của pháp luật; yêu cầu bãi bỏ quyết định thu hồi quyết định kê biên tài sản. Cơ quan Thi hành án dân sự không nhất trí với kháng nghị.
Để xem xét vụ việc thi hành án có đúng quy định của pháp luật hay không, theo chúng tôi cần phải nghiên cứu kỹ nội dung vụ việc, các quy định của pháp luật về quyền sở hữu cũng như pháp luật về thi hành án dân sự. Trở lại vụ việc này, có thể khẳng định rằng, quá trình tổ chức thi hành án, đương sự Nguyễn Thị Oanh không tự nguyện thi hành án; ngôi nhà của gia đình bà Oanh là một thể thống nhất, nếu chia tách sẽ làm giảm trị giá tài sản nên Chấp hành viên đã kê biên, bán đấu giá toàn bộ toài sản là nhà và quyền sử dụng đất được 780.300.000đ, đã xử lý ½ số tiền trên để thi hành án là phù hợp với quyết định bản án của Toà án.
Đối với số tiền còn lại là 390.150.000đ ( ½ trị giá nhà và quyền sử dụng đất) là phần tài sản của ông Lê Quyết Thắng, chồng bà Oanh được nhận. Tuy nhiên, ông Thắng đã chết, không có di chúc nên việc quản lý, định đoạt khối di sản này được thực hiện theo quy định của pháp luật về thừa kế ( thừa kế theo pháp luật ). Đối với khối di sản trên, các đương sự chưa tự thoả thuận phân chia di sản, cơ quan có thẩm quyền chưa xác định được cụ thể diện thừa kế, hàng thừa kế theo pháp luật. Ðiều 676 Bộ luật dân sự quy định:
“ 1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b)…”
Vì vậy, việc tự xác định ông Thắng có vợ và 02 con là người chưa thành niên là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, được hưởng khối di sản thừa kế 390.150.000đ, tự chia số tiền thành 03 phần bằng nhau, đồng thời ước tính bà Oanh được hưởng thừa kế 130.050.000đ, ra quyết định kê biên là chưa phù hợp với khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Điều 74 Luật Thi hành án dân sự có nội dung:
“ 1. Trước khi cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác, kể cả quyền sử dụng đất, Chấp hành viên phải thông báo cho chủ sở hữu chung biết việc cưỡng chế.
Chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người được thi hành án hoặc Chấp hành viên có quyền yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án.
Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu chung của vợ, chồng thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết. Trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý thì có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày phần sở hữu được Chấp hành viên xác định. Hết thời hạn trên, đương sự không khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành xử lý tài sản và thanh toán lại cho vợ hoặc chồng của người phải thi hành án giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ”
Trước khi kê biên 130.050.000đ để đảm bảo thi hành án, cần phải thông báo cho chủ sở hữu chung biết việc kê biên; chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung ( bà Nguyễn Thị Oanh và 02 con chưa thành niên của bà Oanh – do bà Oanh đang chấp hành án phạt tù nên việc giám hộ cho 02 con bà Oanh do chị gái ông Thắng thực hiện ). Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người được thi hành án hoặc Chấp hành viên có quyền yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án. Việc thi hành án sẽ được tiếp tục khi có bản án, quyết định có hiệu lực của Toà án xác định rõ kỷ phần của bà Nguyễn Thị Oanh - người phải thi hành án trong khối tài sản trị giá 390.150.000đ. Vì vậy, Quyết định thu hồi quyết định kê biên của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án là phù hợp với quy định của pháp luật về thi hành án dân sự./.
Hà Tuấn Phương