Bản án số 05/2010/HSST, ngày 15/02/2010 của Toà án nhân dân huyện B xét xử đối với Vũ Mạnh T và Phạm Công Th về tội "Trộm cắp tài sản" và "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có". Tại phần quyết định về trách nhiệm dân sự và vật chứng tại bản án có tuyên như sau:
"Buộc bị cáo Vũ Mạnh T và Phạm Công Th phải trả lại cho anh Nguyễn Đình H số tiền anh H đã mua xe máy do T và Th phạm tội mà có là 2.505.000 đồng. Trong đó, bị cáo T phải trả 1.352.500 đồng, bị cáo Th phải trả 1.152.500 đồng."
"... Bảo thủ 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ ngoài màu đen, loại máy 1202 serial 357979033 - 876990 thu của bị cáo T và 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ ngoài màu đen, loại máy 1202 serial 357979033 - 876925 thu của bị cáo Th để bảo đảm thi hành án phần dân sự cho anh H."
Ngoài ra, bản án còn tuyên nghĩa vụ về án phí, tịch thu sung quỹ nhà nước đối với số tiền mà các bị cáo đã tự nguyện giao nộp trong quá trình điều tra, tuy nhiên trong nội dung bài viết này, vấn đề tôi cần trao đổi ở đây là ở việc xử lý tài sản tạm giữ của các bị cáo nên không nêu ra cụ thể.
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, anh Nguyễn Đình H có đơn yêu cầu thi hành án gửi Chi cục Thi hành án dân sự huyện B. Căn cứ bản án, xét đơn yêu cầu của anh H, Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự huyện B đã ra quyết định thi hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành theo đúng quy định của pháp luật.
Sau khi được phân công, Chấp hành viên đã tiến hành phối hợp với Trại giam nơi Vũ Mạnh T và Phạm Công Th đang phải chấp hành hình phạt tù, tiến hành xác minh điều kiện thi hành án cũng như ghi nhận ý kiến của Vũ Mạnh T và Phạm Công Th về việc thi hành nghĩa vụ của mình. Theo đó, cả Vũ Mạnh T và Phạm Công Th đều có ý kiến đề nghị cơ quan thi hành án tiến hành xử lý tài sản là 02 chiếc điện thoại di động để thi hành nghĩa vụ trả cho anh Nguyễn Đình H. Xét thấy Vũ Mạnh T và Phạm Công Th không có bất kỳ tài sản, nguồn thu nhập nào khác để thi hành án, động viên người thân trong gia đình thi hành thay cũng không có kết quả, Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự huyện B tiến hành các thủ tục để kê biên, bán 02 chiếc điện thoại di động đã bị Toà án tuyên bảo thủ nhằm thu tiền để trả cho anh Nguyễn Đình H.
Tuy nhiên, trong quá trình chuẩn bị xử lý tài sản thì anh Nguyễn Đình H có đơn đề nghị gửi cơ quan thi hành án, nội dung không yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành khoản buộc Vũ Mạnh T và Phạm Công Th phải trả lại cho anh H tiền mua xe máy là 2.505.000 đồng nữa. Vấn đề nảy sinh ở đây là xử lý tài sản là 02 chiếc điện thoại di động đã bị tuyên bảo thủ để thi hành án như thế nào, xin nêu ra các quan điểm để các đồng nghiệp, đồng chí cùng thảo luận.
Quan điểm thứ nhất:
Theo phần nhận định của bản án thì Vũ Mạnh T và Phạm Công Th sau khi trộm cắp chiếc xe máy đã bán cho anh Nguyễn Đình H và dùng số tiền bán được mua 02 chiếc điện thoại di động để sử dụng. Hay nói cách khác, 02 chiếc điện thoại nói trên có được từ việc bán tài sản phạm tội mà có. Mặc dù trong bản án có tuyên dùng 02 chiếc điện thoại di động đó để bảo đảm thi hành án phần dân sự (trả lại) cho anh Nguyễn Đình H và thực tế anh H cũng không yêu cầu thi hành khoản bồi thường này nữa. Do đó, cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước 02 chiếc điện thoại di động này.
Quan điểm thứ hai:
Cần trả lại cho Vũ Mạnh T và Phạm Công Th 02 chiếc điện thoại di động trên.
Cá nhân tôi theo quan điểm thứ hai, vì lý do sau:
Trước hết, cần hiểu rõ cụm từ "bảo thủ" được nêu trong bản án có ý nghĩa như thế nào?
Trong các thuật ngữ pháp lý hiện nay không có khái niệm hay giải thích cụm từ "bảo thủ" rõ ràng. Nếu xem xét kỹ cả câu trong bản án mà ở đó cụm từ "bảo thủ" được sử dụng sẽ hiểu rõ hơn bản chất của nó: "... bảo thủ 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ ngoài màu đen, loại máy 1202 serial 357979033 - 876990 thu của bị cáo T và 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ ngoài màu đen, loại máy 1202 serial 357979033 - 876925 thu của bị cáo Th để bảo đảm thi hành án phần dân sự cho anh H".
Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Luật THADS thì khoản "bảo thủ" không nằm trong các trường hợp chủ động ra quyết định thi hành án, nếu vậy thì chỉ thuộc diện ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu? Điều này lại càng bất hợp lý vì ai sẽ là người yêu cầu để Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định?
Về vấn đề này, theo quan điểm của cá nhân tôi thì việc sử dụng cụm từ "bảo thủ" là không rõ ràng, khó hiểu, đây chỉ tương tự như loại từ địa phương, không có hướng dẫn áp dụng thống nhất. Cần phải hiểu cả câu " ... bảo thủ 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ ngoài màu đen, loại máy 1202 serial 357979033 - 876990 thu của bị cáo T và 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ ngoài màu đen, loại máy 1202 serial 357979033 - 876925 thu của bị cáo Th để bảo đảm thi hành án phần dân sự cho anh H." ở trong bản án chính là khoản " hoàn trả cho Vũ Mạnh T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ ngoài màu đen, loại máy 1202 serial 357979033 - 876990, trả cho Nguyễn Công Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ ngoài màu đen, loại máy 1202 serial 357979033 - 876925 nhưng được giữ lại để đảm bảo phần thi hành án dân sự cho anh Nguyễn Đình H."
Cách hiểu như trên là hợp lý, vì nó phù hợp với phần nhận định của bản án. Theo đó, số tiền anh Nguyễn Đình H đã bỏ ra để mua xe máy do Vũ Mạnh T và Phạm Công Th trộm cắp được ( anh H không biết tài sản này do phạm tội mà có) là 2.505.000 đồng, bản án đã tuyên buộc Vũ Mạnh T và Phạm Công Th có trách nhiệm trả lại cho anh Nguyễn Đình H đủ số tiền này là hết nghĩa vụ của T và Th đối với anh H. Khi đó, 02 chiếc điện thoại di động thuộc quyền sở hữu của Vũ Mạnh T và Phạm Công Th và cần trả lại cho T, Th là đúng. Mặt khác, việc hiểu như vậy sẽ dễ dàng hơn trong việc ra quyết định thi hành án chủ động, về phần này, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự huyện B có thể căn cứ điểm b khoản 1 Điều 36 Luật THADS để ra quyết định thi hành án như sau:
"Hoàn trả cho Vũ Mạnh T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ ngoài màu đen, loại máy 1202 serial 357979033 - 876990, trả cho Nguyễn Công Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ ngoài màu đen, loại máy 1202 serial 357979033 - 876925 nhưng được giữ lại để đảm bảo phần thi hành án dân sự cho anh Nguyễn Đình H."
Sau khi đã thống nhất cách hiểu như trên, việc anh Nguyễn Đình H có đơn không yêu cầu thi hành khoản trả lại 2.505.000 đồng nữa thì có nghĩa là Vũ Mạnh T và Nguyễn Công Th sẽ không phải bồi thường cho anh Nguyễn Đình H. Cũng có nghĩa là 02 chiếc điện thoại di động sẽ không được sử dụng để đảm bảo thi hành nghĩa vụ này nữa vì nghĩa vụ đã được định đoạt chấm dứt bởi người được hưởng quyền lợi. Khi đó, 02 chiếc điện thoại di động nói trên cần được trả cho Vũ Mạnh T và Phạm Công Th mà không thể tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
Trên đây là thực tiễn vụ việc đang được tổ chức thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tôi xin nêu ra các quan điểm và ý kiến của cá nhân mình, thiết nghĩ cần có sự hướng dẫn áp dụng thống nhất các thuật ngữ pháp lý trong bản án, tránh sử dụng từ địa phương gây khó hiểu, xin được tiếp thu các ý kiến đóng góp, trao đổi của các đồng chí, đồng nghiệp.
Lương Thanh Tùng