Trên thực tế có nhiều trường hợp tài sản đã được chuyển nhượng cho người thứ ba nhưng các bên chưa thực hiện hoặc chưa hoàn tất thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản nên khi cơ quan thi hành án dân sự thực hiện cưỡng chế thi hành án thì phát sinh tranh chấp. Do đó, để giải quyết những vấn đề này, cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người nhận chuyển nhượng tài sản, tại Điều 75 Luật Thi hành án dân sự đã quy định trường hợp tài sản của người phải thi hành án bị cưỡng chế để thi hành án mà có người khác tranh chấp thì Chấp hành viên thông báo cho đương sự, người có tranh chấp về quyền của họ được khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết; trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà đương sự, người có tranh chấp khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì việc xử lý tài sản được thực hiện theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền; trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà đương sự, người có tranh chấp không khởi kiện tại Tòa án hoặc không đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì Chấp hành viên xử lý tài sản để thi hành án theo quy định của Luật này. Trường hợp có căn cứ xác định giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án để yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó; hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó.
Trong quá trình tổ chức thi hành án, không phải trong trường hợp nào các bên đương sự cũng có tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng tài sản. Vì vậy, đối với các hợp đồng chuyển nhượng tài sản đã được hoàn thành hoặc đã được công chứng, cơ quan thi hành án dân sự phải hướng dẫn người được thi hành án hoặc tự mình yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch chuyển nhượng tài sản của người phải thi hành án. Tuy nhiên, Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định cụ thể trong trường hợp Tòa án không chấp nhận “yêu cầu tuyên bố giao dịch đó vô hiệu” thì cơ quan thi hành án dân sự sẽ giải quyết đối với tài sản đó như thế nào dẫn đến việc lúng túng trong quá trình tổ chức thi hành án.
Xin nêu một ví dụ cụ thể như sau:
Theo Bản án số 219/2014/DS-ST ngày 03/12/2014 của Tòa án nhân dân huyện H thì vợ chông ông Lê Văn T và bà Trần Thị L phải trả ông Nguyễn H và bà Trần T số tiền 2.636.725.000 đ (ngoài ra bản án còn tuyên cả lãi phát sinh do chậm thi hành án). Trên cơ sở đơn yêu cầu thi hành án của ông Nguyễn H và bà Trần T, cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành. Trong quá trình xác minh, cơ quan thi hành án được biết ông T và bà L có 01 chiếc tàu cá biển số 96578-TS, tài sản này đã được ông T và bà L lập hợp đồng chuyển nhượng cho ông Trần Hữu vào ngày 23/10/2013 (hợp đồng được công chứng số 2808, quyển số 01/TP-CCSCC/HĐGD tại Phòng Công chứng số 2 của tỉnh) với giá 1.4 tỷ đồng. Các bên đã giao nhận tiền và tài sản nhưng ông Trần Hữu chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản. Đến ngày 24/9/2014, ông Hữu chuyển tàu cá trên cho bà Lê Thị Thu nhưng do giấy chứng nhận vẫn mang tên ông Lê Văn T nên ông Hữu đã đề nghị vợ chồng ông Lê Văn T và bà Trần Thị L lập hợp đồng chuyển nhượng chiếc tàu cá nói trên cho bà Lê Thị Thu (hợp đồng này được công chứng bởi Văn phòng công chứng QN) nhưng bà Lê Thị Thu chưa thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu đối với tàu cá trên.
Qua xác minh tại Chi cục Thủy sản thì chiếc tàu cá trên vẫn mang tên ông Lê Văn T (người phải thi hành án). Do đó, ngày 27/7/2016, Chấp hành viên đã ra quyết định kê biên, xử lý chiếc tàu đánh bắt cá số 96578-TS để đảm bảo việc thi hành án của vợ chông ông Lê Văn T và bà Trần Thị L. Sau khi ban hành quyết định kê biên (chưa thực hiện việc kê biên), Chấp hành viên đã nộp đơn khởi kiện tại 02 Tòa án (nơi 02 tổ chức công chứng nêu trên hành nghề) để yêu cầu tuyên bố 02 văn bản công chứng liên quan đến hợp đồng mua bán tàu cá trên vô hiệu làm cơ sở cho việc tổ chức thi hành án.
Ngày 17/01/2017, Tòa án nhân dân thành phố QN đã ban hành Quyết định giải quyết việc dân sự số 10/2017/QĐST-VDS về việc “ yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu” . Tòa án đã cho rằng vào ngày 24/9/2014, vợ chồng ông Lê Văn T và bà Trần Thị L đi cùng bà Lê Thị Thu đến Văn phòng Công chứng QN yêu cầu công chứng “ Hợp đồng bán tàu cá 96578-TS”. Tàu cá này là tài sản của vợ chồng ông Lê Văn T và bà Trần Thị L theo “ Giấy chứng nhận đăng ký tàu cá” do Chi cục khai thác và bảo vệ nguồn lợi Thủy sản cấp ngày 20/02/2012, người mua tài sản là bà Lê Thị Thu. Bà Trần Thị Q - Công chứng viên của Văn phòng Công chứng QN đã công chứng hợp đồng mua bán tàu cá 96578- TS số 2917 vào số số 01 TP/CC-SCC/HĐGD. Các bên thực hiện giao dịch đều thừa nhận, tại thời điểm công chứng hợp đồng, giấy tờ các bên cung cấp đầy đủ, tài sản giao dịch không nằm trong diện phong tỏa cấm giao dịch và không ai mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Về hình thức và nội dung của văn bản công chứng phù hợp với quy định của pháp luật về công chứng. Mặt khác, tại thời điểm công chứng hợp đồng Tòa án chưa thụ lý giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản của ông Nguyễn H và bà Trần T với vợ chồng ông Lê Văn T và bà Trần Thị L. Do đó, việc vợ chồng ông Lê Văn T và bà Trần Thị L bán tàu cá trên cho bà Lê Thị Thu hoàn toàn hợp pháp, bà Lê Thị Thu vẫn sử dụng tàu cá này để đánh bắt thủy hải sản từ đó đến nay. Mặc dù tàu cá vẫn đứng tên ông Lê Văn T nhưng theo quy định tai Điều 5 Luật Công chứng thì Hợp đồng mua bán tàu cá trên giữa các bên đã có hiệu lực thi hành ngay sau khi công chứng vào ngày 24/9/2014. Xét thấy, Văn bản công chứng trên do Công chứng viên Trần Thị Q thực hiện là hoàn toàn đúng theo quy định tại Điều 41 Luật Công chứng. Do đó, Tòa án đã Quyết định“không chấp nhận yêu cầu của Chấp hành viên yêu cầu Tòa án tuyên bố văn bản công chứng hợp đồng mua bán tàu cá 96578- TS số 2917 vào số số 01 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 24/9/2014 giữa vợ chồng ông Lê Văn T, bà Trần Thị L và bà Lê Thị Thu do bà Trần Thị Q - Văn phòng Công chứng QN thực hiện vô hiệu”.
Quyết định trên của Tòa án đã có hiệu lực hơn 6 tháng nhưng đến nay cơ quan thi hành dân sự vẫn tiếp tục duy trì Quyết định kê biên chiếc tàu cá nói trên để đợi kết quả giải quyết của Tòa án huyện HN về việc Chấp hành viên yêu cầu Văn bản công chứng hợp đồng mua bán tàu cá 96578- TS số 2808, quyển số 01/TP-CCSCC/HĐGD ngày 23/10/2013 giữa vợ chồng ông Lê Văn T, bà Trần Thị L và ông Trần Hữu do Phòng Công chứng số 2 của tỉnh thực hiện.
Quan điểm của tác giả trong trường hợp này Quyết định giải quyết việc dân sự số 10/2017/QĐST-VDS ngày 17/01/2017, Tòa án nhân dân thành phố QN vẫn đang có hiệu lực pháp luật chưa bị sửa đổi hoặc hủy bỏ. Do đó, văn bản công chứng hợp đồng mua bán tàu cá 96578- TS số 2917 vào số số 01 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 24/9/2014 giữa vợ chồng ông Lê Văn T, bà Trần Thị L và bà Lê Thị Thu do bà Trần Thị Q - Văn phòng Công chứng QN thực hiện là có hiệu lực. Vì vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật Công chứng thì hợp đồng mua bán tàu cá 96578- TS số 2917 vào số số 01 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 24/9/2014 giữa vợ chồng ông Lê Văn T, bà Trần Thị L và bà Lê Thị Thu có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan và không phụ thuộc vào việc “Văn bản công chứng hợp đồng mua bán tàu cá 96578- TS số 2808, quyển số 01/TP-CCSCC/HĐGD ngày 23/10/2013 giữa vợ chồng ông Lê Văn T, bà Trần Thị L và ông Trần Hữu do Phòng Công chứng số 2 của tỉnh thực hiện” có bị Tòa án tuyên vô hiệu hay không . Vì vậy, cơ quan thi hành án dân sự phải thu hồi quyết định kê biên tàu cá 96578- TS để bà Lê Thị Thu thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu tàu cá trên theo quy định pháp luật.
Để thống nhất thực hiện trong các trường hợp Tòa án không chấp nhận yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng hoặc giao dịch liên quan đến việc chuyển nhượng tài sản của người phải thi hành án thì cần có hướng dẫn cụ thể vấn đề nêu trên.
Thu Văn Trang