Trên thực tế việc hoàn trả đối với những số tiền tạm ứng án phí hoặc tài sản có giá trị nhỏ thì lại không hề dễ dàng. Có thể kể tới một số vướng mắc như sau:
Thứ nhất, đương sự không đến nhận lại tiền tạm ứng án phí được hoàn trả. Theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án (Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14) thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu 50% mức án phí. Theo danh mục án phí lệ phí tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 thì mức án phí áp dụng đối với việc tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động không có giá ngạch là 300.000đ . Do đó đối với các trường hợp thuận tình ly hôn thì mức án phí được tuyên trả lại đương sự là 150.000đ. Vấn đề đặt ra là số tiền tạm ứng án phí được trả lại trong các vụ án ly hôn có giá trị quá nhỏ dẫn đến nhiều đương sự không đến nhận lại tiền do “ ngại” phải bỏ thời gian, công sức để lấy lại. Một số trường hợp sau khi ly hôn đương sự chuyển địa chỉ đi nơi khác hoặc không thể xác định được địa chỉ của đương sự,… dẫn đến tình trạng cơ quan thi hành án dân sự báo gọi rất nhiều lần nhưng đương sự không đến nhận tiền. Việc này gây ra không ít khó khăn cho Chấp hành viên, tốn kém thời gian, công sức của Chấp hành viên và dẫn đến tồn đọng hồ sơ thi hành án.
Thứ hai, về mặt pháp lý, thủ tục xử lý đối với khoản tiền trả lại tạm ứng vẫn còn nhiều bất cập.Trình tự thủ tục trả lại tiền tạm ứng án phí được quy định cụ thể tại Điều 126 Luật thi hành án dân sự, khoản 2, khoản 5 Điều 49 Nghị đ
ịnh 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự. Theo quy định tại khoản 5 Điều 126 Luật Thi hành án dân sự thì việc trả lại tiền tạm ứng án phí theo bản án, quyết định được thực hiện theo quy định tại các khoản 1,2,3 và 4 Điều 126 Luật Thi hành án dân sự. Sau khi có quyết định trả lại tiền, tài sản tạm giữ, Chấp hành viên thông báo cho đương sự thời gian, địa điểm nhận lại tiền, tài sản. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được thông báo mà đương sự không đến nhận tiền thì Chấp hành viên gửi số tiền đó theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn và thông báo cho đương sự. Hết thời hạn 03 tháng, kể từ ngày được thông báo nhưng đương sự không đến nhận tài sản mà không có lý do chính đáng thì Chấp hành viên xử lý tài sản theo quy định tại các Điều 98, 99 và 101 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và gửi số tiền thu được theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn, đồng thời thông báo cho đương sự. Hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà đương sự vẫn không đến nhận số tiền đã được gửi tiết kiệm mà không có lý do chính đáng thì cơ quan thi hành án dân sự làm thủ tục sung quỹ nhà nước.
Quy định trên đã quy định rất cụ thể về cách thức xử lý đối với khoản tiền, tài sản được trả lại cho đương sự mà đương sự không đến nhận. Tuy nhiên vấn đề vướng mắc là thời gian để xử lý khoản tạm ứng án phí trong trường hợp đương sự không đến nhận vẫn còn quá dài: Hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà đương sự vẫn không đến nhận số tiền đã được gửi tiết kiệm mà không có lý do chính đáng thì cơ quan thi hành án dân sự làm thủ tục sung quỹ nhà nước. Như vậy để giải quyết dứt điểm hồ sơ thi hành án, các cơ quan thi hành án dân sự phải đủ thời hạn theo quy định tại Khoản 2, Điều 126 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 là sau 5 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật… khoản tiền này mới được làm thủ tục sung quỹ nhà nước.
Thứ ba, theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án trong trường hợp người được nhận tài sản đã được thông báo hợp lệ 2 lần về việc nhận tài sản nhưng không đến nhận thì cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án. Theo đó đối với các việc mà bản án tuyên trả lại những tang vật có giá trị tài sản thấp (ví dụ như: Chậu nhôm đã qua sử dụng bị méo mó, con dao hay những vật dụng có giá trị thấp, đã qua sử dụng, thậm chí không còn giá trị sử dụng) hoặc hoàn trả tiền tạm ứng án phí mà số tiền có giá trị nhỏ (chỉ từ 100.000đ đến 200.000đ) sau khi cơ quan thi hành án dân sự đã thông báo nhưng đương sự không đến nhận cũng không có lý do chính đáng …cơ quan thi hành án dân sự không trả được sẽ dẫn đến số việc bị tồn đọng ảnh hưởng đến chỉ tiêu giải quyết việc thi hành án. Do vậy cần thiết phải có quy định trong thời hạn bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận được thông báo nếu người được thi hành án không đến nhận lại tài sản và không có lý do chính đáng thì cơ quan thi hành án dân sự tiến hành tịch thu, tiêu hủy để xử lý dứt điểm vụ việc thi hành án.
Giải quyết dứt điểm các vụ án hoàn trả tiền tạm ứng án phí không chỉ có ý nghĩa đối với việc thực thi trên thực tế bản án, quyết định của tòa án mà còn có ý nghĩa lớn trong việc giảm án tồn đọng trong hoạt động thi hành án dân sự hiện nay. Do đó tác giả xin đưa ra một số kiến nghị như sau:
Đối với khoản tiền án phí ly hôn sơ thẩm: Đề nghị xem xét quy định thống nhất một phương án xử lý chung đối với khoản tiền tạm ứng án phí có giá trị nhỏ (dưới 500.000đ) thì Tòa án có thể tuyên thu toàn bộ số tiền tạm ứng án phí để sung công quỹ nhà nước, việc này sẽ góp phần giảm tải số lượng việc thi hành án đáng kể cho các cơ quan thi hành án dân sự
Đối với thời gian làm thủ tục sung công quỹ nhà nước: Đề nghị xem xét rút ngắn khoảng thời gian làm thủ tục sung công quỹ nhà nước đối với số tiền tạm ứng án phí mà đương sự không đến nhận (từ 5 năm xuống còn 3 năm ) để tạo điều kiện cho cơ quan thi hành án dân sự có thể nhanh chóng kết thúc hồ sơ thi hành án
Trong thực tiễn, số lượng việc thi hành án khoản hoàn trả tiền tạm ứng án phí chiếm số lượng rất lớn, đặc biệt là đối với các vụ việc ly hôn đang ngày càng có xu hướng gia tăng hiện nay, do đó việc khắc phục những khó khăn, bất cập trong việc hoàn trả khoản tiền tạm ứng án phí có giá trị nhỏ của các cơ quan thi hành án dân sự có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.