Một số giải pháp nhằm tăng cường, nâng cao ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong Hệ thống cơ quan Thi hành án dân sự

19/05/2022


Trong những năm gần đây, công tác công nghệ thông tin và thực hiện chuyển đổi số được Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Lãnh đạo Tổng cục Thi hành án dân sự (THADS), đặc biệt quan tâm, chỉ đạo tổ chức thực hiện hiệu quả và đạt được nhiều kết quả tích cực. Trong bối cảnh lượng án phải thi hành không ngừng tăng cao nhưng biên chế không tăng, thực hiện chủ trương của Đảng[1], chỉ đạo của Chính phủ[2], Thủ tướng Chính phủ[3] về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước, thời gian qua, Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS, các cơ quan THADS đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp, biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS. Tuy nhiên, trước yêu cầu rút ngắn thời gian thi hành án thì việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và thực hiện chuyển đổi số là rất cần thiết.
I. Một số kết quả khả quan về ứng dụng công nghệ thông tin đã đạt được trong thi hành án dân sự
1. Chủ trương, đường lối, định hướng, kế hoạch:
Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Lãnh đạo Tổng cục Thi hành án dân sự đã ban hành nhiều kế hoạch, đề án về ứng dụng công nghệ thông tin trong Hệ thống Thi hành án dân sự, trong đó xác định rõ mục đích, yêu cầu, các nhiệm vụ cụ thể, có lộ trình, giải pháp cho cả giai đoạn từ 2021 đến 2025 định hướng đến năm 2030, cụ thể như: Quyết định số 639/QĐ-BTP ngày 27/4/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc phê duyệt Đề án “Ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện chuyển đổi số và bảo đảm an toàn thông tin mạng trong hoạt động của Hệ thống Thi hành án dân sự giai đoạn 2021-2025”; Quyết định số 682/QĐ-BTP ngày 07/5/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Kế hoạch Ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển Chính phủ số và bảo đảm an toàn thông tin trong hoạt động của Ngành Tư pháp giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 962/QĐ-BTP ngày 04/6/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Quyết định số 406/QĐ-TTg ngày 22/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục dịch vụ công trực tuyến tích hợp, cung cấp trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia năm 2021; Quyết định số 983/QĐ-BTP ngày 10/6/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Kế hoạch “Chuyển đổi số Ngành Tư pháp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, đồng thời chỉ đạo xây dựng kế hoạch triển khai từ Tổng cục đến các Cục, Chi cục Thi hành án dân sự Quyết định số 380/QĐ-TCTHADS ngày 10/5/2021 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự về việc ban hành Kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ úng dụng công nghệ thông tin trong thi hành án dân sự năm 202;.
2. Về hạ tầng kỹ thuật:
Ở Trung ương: Hiện nay, 100% cán bộ, công chức, viên chức của Tổng cục Thi hành án sự được trang bị mỗi người 01 máy tính kết nối mạng nội bộ (LAN) và mạng internet, các phòng làm việc được trang bị một số thiết bị khác phục vụ công tác như máy in, máy fax, máy scan, máy photocopy, điện thoại... Hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin tại Tổng cục Thi hành án sự chưa thực hiện đầu tư mua sắm, quản lý riêng mà phụ thuộc chủ yếu vào Cục Công nghệ thông tin thuộc Bộ Tư pháp (Hệ thống máy chủ, đường truyền, lưu trữ, an ninh, an toàn thông tin…).
Tại các cơ quan thi hành án dân sự địa phương: Cán bộ, công chức đều được trang bị tương đối đầy đủ các trang thiết bị tin học phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ, đạt yêu cầu 01 máy tính/01người; 100% các Cục Thi hành án dân sự và Chi cục Thi hành án dân sự đã thiết lập hệ thống mạng nội bộ (LAN), kết nối mạng Internet.
Hàng năm, Tổng cục Thi hành án sự đều chỉ đạo các đơn vị thuộc Tổng cục, các Cục Thi hành án dân sự rà soát, trang cấp máy tính và thiết bị tin học cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.
3. Về nhân lực:
Hiện tại ở Tổng cục có Trung tâm Thống kê, Quản lý dữ liệu và Ứng dụng công nghệ thông tin là đơn vị trực thuộc tham mưu trong công tác nghiên cứu và triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin của toàn Hệ thống Thi hành án sự. Trung tâm có 02 đồng chí có trình độ cử nhân công nghệ thông tin.
Ở các cơ quan Thi hành án dân sự hiện nay được phân bổ 01 biên chế chuyên trách công nghệ thông tin/Cục Thi hành án dân sự (hầu hết các Cục Thi hành án dân sự đã tuyển đủ số biên chế này, một số đơn vị giao kiêm nhiệm phụ trách), các Chi cục Thi hành án dân sự chưa có cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin.
Hàng năm, Tổng cục phối hợp với các đơn vị liên quan (Vụ Tổ chức cán bộ, Cục Công nghệ thông tin, Học viện Tư pháp) xây dựng Kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, trong đó có đào tạo, bồi dưỡng kiến thức công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong Hệ thống Thi hành án dân sự.
4. Một số ứng dụng nội bộ đã xây dựng triển khai:
- Đã xây dựng và triển khai Phần mềm quản lý quá trình thụ lý, tổ chức thi hành án và báo cáo thống kê thi hành án dân sự. Ngày 02/6/2017, Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 791/QĐ-BTP về việc triển khai Phần mềm này trong toàn Hệ thống Thi hành án dân sự;
- Phần mềm quản lý văn bản đi/đến, ngày 12/11/2014 Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 3037/QĐ-BTP về việc Ban hành Kế hoạch triển khai, đưa vào sử dụng phần mềm quản lý công văn đi/đến cho Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Phần mềm quản lý công chức THADS, Ngày 20/9/2021, Tổng cục Thi hành án dân sự đã ban hành Công văn số 3028/TCTHADS-TCCB về việc triển khai phần mềm Quản lý công chức Thi hành án dân sự;
- Phần mềm cơ sở dữ liệu điện tử về thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành, ngày 22/3/2021 Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự đã ký Quyết định số 247/QD-TCTHADS về việc triển khai phần mềm cơ sở dữ liệu điện tử về thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án;
- Phần mềm hỗ trợ trực tuyến THADS, ngày 01/10/2020 Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự đã ký Quyết định số 816/QD-TCTHADS về việc triển khai phần mềm Hỗ trợ trực tuyến THADS;
- Phần mềm Kế toán nghiệp vụ thi hành án dân sự và Kế toán Hành chính sự nghiệp THADS;
- Phần mềm Lưu trữ dùng chung cho hệ thống tổ chức các cơ quan THADS (đang sử dụng tại Tổng cục các Cục THADS);
- Hầu hết cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thuộc Tổng cục, các cơ quan thi hành án dân sự địa phương đều được cấp hộp thư điện tử công vụ phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ (khoảng 10.000 tài khoản), dung lượng cao nhất lên đến 5GB.
- Đầu tư mua sắm, lắp đặt và đưa vào sử dụng hệ thống giao ban trực tuyến với 64 điểm cầu (tại Tổng cục và 63 Cục Thi hành án dân sự) phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo điều hành nhanh chóng, tiết kiệm.
- Triển khai cấp chữ ký số cho Lãnh đạo Tổng cục, Lãnh đạo các đơn vị thuộc Tổng cục, Cục trưởng và Chi Cục trưởng Chi cục THADS.
5. Ứng dụng phục vụ người dân doanh nghiệp:
Hiện tại Cổng/Trang thông tin điện tử THADS thường xuyên cập nhật, đăng tải các thông tin liên quan đến công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành hoạt động THADS; đã cung cấp một số dịch vụ công trực tuyến cấp độ 2; hỗ trợ trực tuyến THADS đối với yêu cầu THADS; yêu cầu xác nhận kết quả THADS; tiếp nhận phản ánh, kiến nghị về THADS; đăng tải công khai danh sách người phải THA chưa có điều kiện, quyết định giải quyết khiếu nại lần hai và thông tin về việc không chấp hành án hành chính; tích hợp với Cổng TTĐT Chính phủ đăng tải thông tin về THAHC theo Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 15/11/2019; tích hợp các thông báo lựa chọn tổ chức thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá và thông tin bán đấu giá tài sản THADS….
Bên cạnh đó, để kịp thời các nhiệm vụ chính trị của Hệ thống, Tổng cục THADS thường xuyên phối hợp với Cục Công nghệ thông tin nâng cấp, bổ sung một số tính năng, chuyên đề, chuyên mục trên Cổng/Trang Thông tin điện tử THADS.
II. Một số khó khăn, hạn chế về ứng dụng công nghệ thông tin trong thi hành án dân sự
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi hành án dân sự cũng còn gặp một số khó khăn, hạn chế, cụ thể:
- Việc đầu tư hạ tầng kỹ thuật trong toàn Hệ thống THADS chưa được thực hiện đồng bộ, đường truyền internet tại một số cơ quan THADS địa phương chưa thật sự đảm bảo, tốc độ đường truyền chậm, không ổn định; công tác đảm bảo an toàn an ninh thông tin ở các cơ quan THADS địa phương chưa được chú trọng.
- Công tác xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu điện tử vẫn còn tình trạng cắt khúc, chưa tạo lập được cơ sở dữ liệu tập trung, nhất là tích hợp cơ sở dữ liệu của từng địa phương thành cơ sở dữ liệu chung thống nhất của cả Hệ thống THADS.
- Việc xây dựng triển khai một số phần mềm, ứng dụng công nghệ thông tin mặc dù đã được thực hiện nhưng còn chậm so với yêu cầu.
- Kỹ năng sử dụng máy tính, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của một số cán bộ, công chức thi hành án dân sự còn hạn chế, nhất là tại các Chi cục THADS.
- Chưa có nhiều chính sách khuyến khích, đãi ngộ nên chưa thu hút được nguồn nhân lực công nghệ thông tin có trình độ chuyên môn cao vào công tác tại Hệ thống THADS.
Về cơ bản, hạ tầng công nghệ thông tin được đầu tư đã đáp ứng yêu cầu quản lý, chỉ đạo, điều hành và thực hiện nhiệm vụ của Bộ, Tổng cục THADS. Việc xây dựng các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, phần mềm ứng dụng trong hoạt động của Bộ, Ngành được tăng cường, từng bước đồng bộ và mang lại hiệu quả rõ rệt. Nguồn nhân lực về công nghệ thông tin được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng. Việc ứng dụng công nghệ thông tin đã góp phần tích cực thay đổi lề lối, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, lãnh đạo các cấp; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành; phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận, sử dụng dịch vụ công của Bộ, Ngành Tư pháp.
Có thể thấy rằng việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác THADS thời gian qua đã có những chuyển biến nhất định, đạt được một số kết quả trên nhiều mặt (hạ tầng, phần mềm, cơ sở dữ liệu, nhân lực, đào tạo, bồi dưỡng…). Tuy nhiên, so với yêu cầu công THADS hiện nay thì việc ứng dụng công nghệ thông tin chưa thực sự đáp ứng yêu cầu, trong thời gian tới cần quan tâm đẩy mạnh thực hiện, tăng cường các nguồn lực, tích cực phối hợp với các đơn vị có thế mạnh về công nghệ thông tin hỗ trợ, hợp tác phát triển.
III. Một số giải pháp nhằm tăng cường, nâng cao ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong Hệ thống cơ quan Thi hành án dân sự trước yêu cầu rút ngắn thời gian thi hành án
Có thể thấy rằng việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi hành án dân sự thời gian qua bước đầu đã có những chuyển biến nhất định, đạt được một số kết quả trên nhiều mặt (hạ tầng, phần mềm, cơ sở dữ liệu, nhân lực, đào tạo, bồi dưỡng…). Tuy nhiên, so với yêu cầu công tác thi hành án dân sự hiện nay thì việc ứng dụng công nghệ thông tin chưa thực sự đáp ứng yêu cầu, trong thời gian tới cần quan tâm đẩy mạnh thực hiện, tăng cường các nguồn lực, tích cực phối hợp với các đơn vị có thế mạnh về công nghệ thông tin hỗ trợ, hợp tác phát triển.
Trước cơ hội và thách thức của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 hiện nay, để đẩy mạnh công tác ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số để rút ngắn thời gian và tổ chức thi hành án, cần triển khai một số giải pháp sau:
Một là: Sửa đổi quy định về chuyển giao bản án, quyết định
Theo quy định tại Điều 28 Luật THADS thì Tòa án, Trọng tài đã ra bản án, quyết định thuộc diện Thủ trưởng cơ quan THADS chủ động ra quyết định thi hành án chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan THADS để cơ quan THADS ra quyết định và tổ chức thi hành. Thủ tục giao nhận bản án, quyết định tại Điều 29 Luật THADS khá chặt chẽ, với việc khi nhận bản án, quyết định do Tòa án, Trọng tài thương mại chuyển giao, cơ quan THADS phải kiểm tra, vào sổ nhận bản án, quyết định; sổ nhận bản án, quyết định phải ghi rõ số thứ tự; ngày, tháng, năm nhận bản án, quyết định; số, ngày, tháng, năm của bản án, quyết định và tên Tòa án, Trọng tài thương mại đã ra bản án, quyết định; tên, địa chỉ của đương sự và tài liệu khác có liên quan; việc giao, nhận trực tiếp bản án, quyết định phải có chữ ký của hai bên; trường hợp nhận được bản án, quyết định và tài liệu có liên quan bằng đường bưu điện thì cơ quan THADS phải thông báo bằng văn bản cho Tòa án, Trọng tài thương mại đã chuyển giao biết.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, hình thức này đang bộc lộ rất nhiều hạn chế như: Tốn nhiều thời gian, phát sinh nhiều thủ tục hành chính liên quan đến việc giao, nhận và cần nhiều nhân lực để thực hiện nên hiệu quả không cao và có thể dẫn tới sai sót, nhầm lẫn, khó kiểm soát.
Hiện tại, thực hiện Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP ngày 30/12/2016 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng từ và cấp, tống đạt văn bản tố tụng bằng văn bản điện tử; phần mềm gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng từ và cấp, tống đạt văn bản tố tụng bằng văn bản điện tử đang được triển khai thực hiện thống nhất trong ngành Tòa án; triển khai thực hiện chữ ký điện tử; xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử bản án, quyết định.
Do vậy, nếu có sự phối hợp chặt chẽ giữa hệ thống THADS với ngành Tòa án chỉ đạo gửi bản án, quyết định bằng thư điện tử hoặc chia sẻ trên phần mềm bằng cách cấp quyền truy cập vào phần mềm chung thì việc này hoàn toàn có tính khả thi.
Việc “số hóa” bản án, quyết định và gửi, nhận trên phần mềm không chỉ đảm bảo tính hiệu quả, kịp thời của việc chuyển giao mà còn phát huy tính chủ động của cơ quan THADS trong việc tiếp nhận bản án, quyết định từ các cơ quan tài phán có thẩm quyền.
Tuy nhiên, để thực hiện được cần sửa đổi quy định của pháp luật và tạo lập cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ kết nối giữa Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh với cơ quan THADS.
Hai là: Sửa đổi, bổ sung quy định về hình thức yêu cầu và tiếp nhận yêu cầu THADS
Theo quy định tại Điều 31 Luật THADS thì đương sự tự mình hoặc ủy quyền cho người khác yêu cầu thi hành án bằng hình thức trực tiếp nộp đơn hoặc trình bày bằng lời nói hoặc gửi đơn qua bưu điện. Người yêu cầu phải nộp bản án, quyết định, tài liệu khác có liên quan. Ngày yêu cầu thi hành án được tính từ ngày người yêu cầu nộp đơn hoặc trình bày trực tiếp hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi. Trường hợp người yêu cầu trực tiếp trình bày bằng lời nói thì cơ quan THADS phải lập biên bản có các nội dung quy định, có chữ ký của người lập biên bản; biên bản này có giá trị như đơn yêu cầu. Khi tiếp nhận yêu cầu thi hành án, cơ quan THADS phải kiểm tra nội dung yêu cầu và các tài liệu kèm theo, vào sổ nhận yêu cầu thi hành án và thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu. Cơ quan THADS từ chối yêu cầu thi hành án và phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thi hành án trong các trường hợp do pháp luật quy định.
Như vậy, hiện nay pháp luật quy định 03 hình thức yêu cầu thi hành án (trực tiếp nộp đơn hoặc trình bày bằng lời nói hoặc gửi đơn qua bưu điện); mặt khác kèm theo yêu cầu thi hành án thì “người yêu cầu phải nộp bản án, quyết định, tài liệu khác có liên quan”. Quy định này tạo ra sự chặt chẽ, gắn với hoạt động tư pháp chịu sự kiểm sát chặt chẽ của Viện kiểm sát nhân dân, bảo đảm lợi ích của đương sự. Tuy nhiên, hình thức yêu cầu thi hành án này có lẽ không còn phù hợp bởi lẽ bị hạn chế về tính nhanh chóng, toàn diện của hình thức yêu cầu THADS cũng như thời hạn ra quyết định THADS theo yêu cầu và nhiều thủ tục khác để kịp thời thi hành hiệu quả việc THADS. Việc quy định hình thức yêu cầu thi hành án trực tuyến cũng nên được quan tâm để đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, góp phần rút ngắn thời gian thụ lý thi hành án.
Thực tiễn THADS cho thấy qua thời gian việc thực hiện “hỗ trợ trực tuyến yêu cầu THADS” mà Tổng cục THADS đã triển khai với 03 nội dung là hỗ trợ trực tuyến yêu cầu thi hành án, hỗ trợ trực tuyến tiếp nhận phản ánh, kiến nghị về thi hành án dân sự và Hỗ trợ trực tuyến yêu cầu xác nhận kết quả thi hành án dân sự được xây dựng giao diện hỗ trợ trực tuyến với Banner nổi bật trên Trang Thông tin điện tử của các Cục THADS, tích hợp trên Cổng Thông tin điện tử của Tổng cục THADS, tại địa chỉ website http://www.thads.moj.gov.vn và được tích hợp trên Cổng Dịch vụ công của Bộ Tư pháp vì thế người dân có thể truy cập vào đó để tương tác trực tuyến với cơ quan thi hành án trên môi trường mạng, rất thuận tiện cho việc gửi email đến cơ quan thi hành án và tiếp nhận hỗ trợ trực tuyến từ cơ quan thi hành án có thẩm quyền giải quyết, góp phần giảm thiểu chi phí về thời gian, vật chất; mặt khác, tạo môi trường tương tác trực tuyến giữa người dân với cơ quan THADS, từng bước tăng cường công khai, minh bạch thủ tục THADS, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin đối với công chức THADS.
Tuy nhiên, trong Luật THADS hiện nay lại chưa có quy định về gửi và nhận yêu cầu THADS trực tuyến. Bởi vậy, cần sửa đổi Luật THADS để bổ sung quy định về hình thức gửi và nhận yêu cầu THADS trực tuyến sẽ tạo cơ sở pháp lý và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các thủ tục THADS nhanh hơn, rút ngắn thời gian thi hành án.
Ba là: Sửa đổi, bổ sung quy định thông báo về THADS trên Báo điện tử, Trang/Cổng Thông tin điện tử THADS 
Theo quy định của pháp luật THADS hiện nay (Điều 39 Luật THADS) thì quyết định về thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập và văn bản khác có liên quan đến việc thi hành án phải thông báo cho đương sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ theo nội dung của văn bản đó. Việc thông báo phải thực hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra văn bản, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Việc thông báo được thực hiện theo các hình thức sau đây: (a) Thông báo trực tiếp hoặc qua cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luật; (b) Niêm yết công khai; (c) Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Như vậy, ngoài việc thông báo trực tiếp hoặc qua cơ quan, tổ chức, cá nhân khác và niêm yết công khai thì việc thông báo về THADS còn được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng chỉ được thực hiện khi pháp luật có quy định hoặc khi đương sự có yêu cầu và trên phương tiện thông tin nhất định, cụ thể là: “Trường hợp xác định đương sự đang có mặt tại địa phương nơi đương sự cư trú thì việc thông báo được thực hiện trên báo ngày trong hai số liên tiếp hoặc trên đài phát thanh, đài truyền hình của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của địa phương đó hai lần trong 02 ngày liên tiếp. Trường hợp xác định đương sự không có mặt tại địa phương nơi đương sự cư trú thì việc thông báo được thực hiện trên báo ngày trong hai số liên tiếp hoặc trên đài phát thanh, đài truyền hình của trung ương hai lần trong 02 ngày liên tiếp. Ngày thực hiện việc thông báo lần hai trên phương tiện thông tin đại chúng là ngày được thông báo hợp lệ”[4]. Tại Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ “quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS” quy định việc thông báo về thi hành án trên phương tiện thông tin đại chúng thực hiện theo quy định tại Điều 43 Luật THADS, ngoài ra có thể được công khai trên Trang Thông tin điện tử của Cục THADS, Cổng Thông tin điện tử của Tổng cục THADS thuộc Bộ Tư pháp. Trường hợp đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu được nhận thông báo bằng điện tín, fax, email hoặc hình thức khác thì việc thông báo trực tiếp có thể được thực hiện theo hình thức đó nếu không gây trở ngại cho cơ quan THADS. Quy định nêu trên tại Nghị định của Chính phủ mới chỉ bó hẹp trong phạm vi “có thể” hoặc chỉ khi “có yêu cầu” của đối tượng được nhận thông báo nên chưa tạo ra cơ chế chủ động cho việc thực hiện thông báo và nhận thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng đối với cơ quan THADS.
Thời hạn thông báo trong THADS đối với từng loại việc thông báo không hoàn toàn giống nhau, mặt khác hậu quả pháp lý phát sinh khi hết thời hạn thông báo hoặc khi người được thông báo nhận được thông báo cũng rất khác nhau. Có thể có trường hợp người được thông báo nhận được thông báo sớm thì bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích của họ và ngược lại họ nhận được thông báo khi cận ngày hoặc hết hạn thông báo thì khó khăn trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ hoặc mất đi quyền, nghĩa vụ trong THADS và dẫn đến việc thi hành án bị kéo dài. Do đó, việc quy định thông báo về THADS thông qua ứng dụng công nghệ thông tin trong Luật sẽ tạo điều kiện cho việc thực hiện các thủ tục THADS nhanh hơn, rút ngắn thời gian thi hành án.
Bốn là: Quy định chi tiết và tăng cường áp dụng hình thức đấu giá trực tuyến tài sản trong THADS
Tài sản đã kê biên trong THADS theo quy định tại khoản 1 Điều 101 Luật THADS được bán theo hình thức bán đấu giá hoặc bán không qua thủ tục đấu giá. Hình thức đấu giá, phương thức đấu giá theo quy định tại Điều 40 Luật Đấu giá tài sản áp dụng từ ngày 01/01/2017 đã được mở rộng đa dạng hơn trước, với việc tổ chức đấu giá tài sản thỏa thuận với người có tài sản đấu giá lựa chọn một trong các hình thức để tiến hành cuộc đấu giá là đấu giá trực tiếp bằng lời nói tại cuộc đấu giá, đấu giá bằng bỏ phiếu trực tiếp tại cuộc đấu giá, đấu giá bằng bỏ phiếu gián tiếp và đấu giá trực tuyếnCó thể nói, phương thức đấu giá trực tuyến là rất tích cực, phù hợp với xu hướng chung, tương đồng với nhiều nước trên thế giới đã thực hiện (Nhật Bản, Thái Lan…), tạo ra hệ thống không gian mạng, mạng lưới vạn vật kết nối Internet để nhiều người biết đến tài sản bán cũng như dễ dàng mua tài sản, với phương thức thanh toán tiền qua tài khoản. Thế nhưng, đây là phương thức đấu giá mới được quy định trong Luật Đấu giá tài sản mà chưa được hướng dẫn cụ thể trong các văn bản pháp luật chuyên ngành về THADS và thực tế chưa có cơ quan THADS nào thực hiện phương thức đấu giá tiến bộ này.
Năm là: Sửa đổi, bổ sung quy định theo hướng tăng cường thanh toán tiền thi hành án bằng hình thức chuyển khoản và thu, nộp tiền tạm ứng án phí/lệ phí qua Cổng Dịch vụ công quốc gia bằng hình thức trực tuyến
Thanh toán tiền, trả tài sản thi hành án được quy định tại nhiều điều luật, như: Điều 47, Điều 126, Điều 129 Luật THADS; Điều 6 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục THADS và phối hợp liên ngành trong THADS; Điều 17 Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp về hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong THADS.
Thủ tục thanh toán tiền, trả tài sản thi hành án theo phương thức trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày thu tiền, tài sản thi hành án, giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, cơ quan THADS phải tiến hành thanh toán tiền, trả tài sản thi hành án theo thứ tự và thu phí thi hành án theo quy định của pháp luật. Chấp hành viên thông báo cho đương sự đến nhận tiền, tài sản. Thông báo đến nhận tiền, tài sản cần ghi rõ: yêu cầu đương sự khi đến nhận tiền, tài sản phải mang theo một trong các giấy tờ sau đây: căn cước công dân; chứng minh nhân dân; hộ chiếu; giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để đối chiếu (các giấy tờ trên phải là bản chính). Việc thanh toán tiền, trả tài sản được thực hiện theo một trong các hình thức sau đây: (1) đương sự trực tiếp đến nhận tiền tại trụ sở cơ quan thi hành án, trường hợp này Chấp hành viên đề nghị kế toán và thủ quỹ thi hành án làm thủ tục chi trả tiền. (2) Đương sự ủy quyền cho người khác nhận thay. Trường hợp này, người nhận thay phải có giấy ủy quyền hợp pháp kèm theo một trong các giấy tờ sau đây: căn cước công dân; chứng minh nhân dân; hộ chiếu; giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để đối chiếu (các giấy tờ trên phải là bản chính). Với thủ tục thanh toán tiền THADS hiện nay thì phương thức thanh toán tiền thi hành án được ưu tiên là đương sự trực tiếp đến nhận tiền (hoặc ủy quyền cho người khác đến nhận thay) tại cơ quan THADS và như vậy có nghĩa là thanh toán bằng tiền mặt. Việc thanh toán tiền bằng phương thức chuyển tiền qua bưu điện hoặc chuyển khoản chỉ được thực hiện khi người được nhận tiền cung cấp tài khoản và yêu cầu chuyển khoản (Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP). Điều này phần nào hạn chế sự chủ động của cơ quan THADS, vì vậy, nếu đương sự không có đơn đề nghị chuyển tiền qua bưu điện hoặc chuyển khoản thì cơ quan THADS không được thực hiện việc thanh toán tiền bằng phương thức này. Điều đó hạn chế sự chủ động của cơ quan THADS và trong trường hợp nhất định sẽ dẫn đến khó khăn, kéo dài thời gian thanh toán tiền thi hành án, quá tải công việc đối với cơ quan THADS (do số tiền phải thanh toán lớn, thời gian rút tiền từ Kho bạc về cơ quan THADS, thời gian nhập quỹ, rút quỹ, kiểm đếm tiền mặt, xác định tiền thật hay tiền giả.v.v.). Nếu như quy định việc thanh toán tiền qua tài khoản quy định là bắt buộc thì sẽ giảm bớt thời gian thanh toán tiền thi hành án và kiểm soát chặt chẽ được tiền, tài sản trong THADS; việc thanh toán bằng tiền mặt chỉ thực hiện trong trường hợp đặc biệt với số tiền rất nhỏ hoặc người được nhận tiền không thể có tài khoản. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về THADS theo hướng tăng cường và bắt buộc thanh toán tiền thi hành án bằng hình thức chuyển khoản và và thu, nộp tiền tạm ứng án phí/lệ phí qua Cổng Dịch vụ công quốc gia bằng hình thức trực tuyến là cần thiết, giảm thiểu chi phí về nhân lực và vật lực, góp phần rút ngắn thời gian thi hành bản án.
Sáu là: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin đối với các thủ tục khác trong công tác THADS[5]
Công tác THADS thực hiện thông qua nhiều hoạt động, với nhiều thủ tục ở nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, vì vậy việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động khác, đặc biệt là các thủ tục liên quan trực tiếp đến việc thi hành án cần phải được chú trọng mới có thể đảm bảo rút ngắn thời gian thi hành bản án. Các thủ tục trong THADS cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, như: Giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS; kiểm sát, giám sát và thực hiện kiểm sát, giám sát trong THADS; quản lý, xử lý tang vật trong THADS; quản lý cán bộ THADS; thống kê, báo cáo và quản lý, xử lý dữ liệu về THADS.
Để thực hiện hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS nói chung và trong tổ chức việc THADS nói riêng để rút ngắn thời gian thi hành bản án thì các điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin phải được chú trọng đồng bộ. Trong đó cần quan tâm về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, máy chủ, máy trạm, đường truyền kết nối, lưu trữ, thiết bị an ninh, bảo mật, đồng thời tiếp nhận và chia sẻ dữ liệu điện tử giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức liên quan về bản án, quyết định cũng như dữ liệu điện tử khác liên quan đến việc thi hành bản án, như: Khả năng kết nối, chia sẻ dữ liệu với các phần mềm, cơ sở dữ liệu liên quan của Tòa án nhân dân các cấp, các cơ quan thi hành án hình sự; kết nối, cung cấp, tích hợp, chia sẻ thông tin với cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Các giải pháp kỹ thuật đưa ra phù hợp và phát huy được hạ tầng kỹ thuật hiện có nhưng ưu tiên việc kế thừa các phần mềm ứng dụng; bảo đảm các phần mềm ứng dụng chuyên ngành thực hiện thuận lợi, trong đó đặc biệt là quản lý, vận hành hiệu quả Phần mềm Quản lý quá trình thụ lý, tổ chức thi hành án và báo cáo thống kê THADS; cơ sở dữ liệu điện tử về THADS, phần mềm quản lý văn bản đi đến, phần mềm hỗ trợ trực tuyến THADS, phần mềm quản lý công chức THADS.v.v.
Bảo đảm nhân lực phù hợp với nền tảng công nghệ thông tin đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Đào tạo và tuyển mới đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin đủ có trình độ cho Tổng cục THADS và cơ quan THADS. Tổ chức bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới về công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong Hệ thống THADS (có thể lồng ghép nội dung trong các đợt tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ của các cơ quan THADS). Nâng cao nhận thức của lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức trong Hệ thống THADS về ý nghĩa, vai trò của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác THADS, để từ đó, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc trong THADS.
Đẩy mạnh việc khảo sát, học tập kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý nhà nước của một số Bộ, ngành trong và ngoài nước thông qua các hình thức như: Khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm thực tế hoặc cử cán bộ tham dự các hội thảo, tọa đàm về những vấn đề liên quan đến ứng dụng công nghệ thông tin, nhất là ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thi hành án.
 
1. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
2. Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019-2020, định hướng đến năm 2025.
[3] Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt ’Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030’.
[4] Điều 43 Luật THADS
[5] TS. Hoàng Thế Anh, Ths.Hoàng Thanh Hoa; Nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động THADS


Các tin khác