Hòa chung trong không khí toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang ra sức thi đua lập thành tích chào mừng thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và thành công của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Hôm nay, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Thi hành án dân sự (19/7/1946 - 19/7/2016).
Trong không khí nồng ấm tình người, chúng ta rất vui mừng, phấn khởi tụ họp về đây để cùng nhau ôn lại truyền thống, chặng đường phát triển 70 năm của các cơ quan Thi hành án dân sự. Thay mặt lãnh đạo, công chức, người lao động các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang, tôi xin trân trọng bày tỏ cảm ơn sự quan tâm, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang, Tổng cục Thi hành án dân sự và cá nhân đồng chí Phùng Quang Đông – Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Nội chính Tỉnh ủy; đồng chí Nguyễn Hải Anh – Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, đồng chí Trần Thị Phương Hoa, Vụ trưởng Vụ TCCB, Tổng cục Thi hành án dân sự. Đồng thời xin nhiệt liệt chào mừng và gửi cảm ơn, lời chúc sức khỏe tới toàn thể các đồng chí đại biểu, các thế hệ lãnh đạo, công chức các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang qua các thời kỳ có mặt tham dự buổi lễ trọng thể này.
Kính thưa toàn thể các đồng chí !
Như các đồng chí đều đã biết, để ghi nhận thành tích vẻ vang của Hệ thống Thi hành án dân sự và động viên các thế hệ cán bộ, công chức và người làm công tác Thi hành án dân sự tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, ngày 05/3/2013, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 397/QÐ-TTg lấy ngày 19/7 hàng năm là "Ngày Truyền thống Thi hành án dân sự", đánh dấu chặng đường lịch sử hình thành và phát triển của các cơ quan Thi hành án dân sự. Đến nay, ngành Thi hành án dân sự đã có bề dày 70 năm xây dựng và trưởng thành. Mặc dù 70 năm qua là một khoảng thời gian không dài so với lịch sử của đất nước, nhưng lại là một chặng đường phấn đấu gian khổ và bền bỉ của nhiều thế hệ cán bộ, công chức các Cơ quan Thi hành án dân sự, gắn liền với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tại buổi lễ hôm nay, xin phép các đồng chí đại biểu và toàn thể các đồng chí cho tôi được điểm lại những dấu mốc son lịch sử quan trọng trong quá trình xây dựng và trưởng thành của ngành 70 năm qua.
Ngày 24/01/1946, năm tháng sau ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 13/SL, quy định về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán, trong đó, khoản 3 Điều 3 của Sắc lệnh quy định: Ban Tư pháp xã có quyền “Thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp trên”. Đây chính là văn bản pháp lý đầu tiên đánh dấu sự ra đời về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Thi hành án dân sự trong chế độ mới. Tiếp theo đó, ngày 19/7/1946 Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 130/SL quy định về thể thức thi hành mệnh lệnh hoặc bản án của Tòa án. Có thể nói, đây là văn bản của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định riêng về công tác thi hành án, thẩm quyền và thể thức thi hành bản án.
Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về “cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng”. Điều 19 của Sắc lệnh này quy định: “Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ, mà chính Tòa án huyện hay Tòa án trên đã tuyên”. Theo quy định này, việc thi hành án dân sự do Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã thực hiện trước đây được giao cho Thẩm phán huyện thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Sắc lệnh này đã giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án dân sự cho một cơ quan cấp huyện thay vì cơ quan cấp xã như trước đây, cho thấy vai trò và vị trí của công tác thi hành án dân sự ngày càng được nâng cao. Năm 1960, công tác thi hành án tiếp tục có thêm bước phát triển mới, đó là trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Điều 24 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 đã quy định: “Tại các Toà án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết định hình sự”. Như vậy, thay bằng quy định Thẩm phán vừa thực hiện công tác xét xử, vừa kiêm nhiệm công tác thi hành án dân sự thì theo quy định mới này từ năm 1960, tại các Tòa án nhân dân đã có nhân viên chấp hành án chuyên trách thực hiện nhiệm vụ thi hành dân sự. Ngày 14/11/1974, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định thành lập Phòng chỉ đạo thi hành án. Trong thời kỳ này, Phòng chỉ đạo thi hành án là một Phòng hoạt động độc lập dưới sự chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, giúp Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nắm tình hình, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc công tác thi hành án của Chấp hành viên tại Tòa án nhân dân các cấp; xây dựng các văn bản chỉ đạo chung về thi hành án.
Ngày 18/12/1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của thời kỳ hoà bình, đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng khi đất nước ta chuyển sang giai đoạn mới: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Hiến pháp năm 1980 đã đưa ra yêu cầu Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (Điều 12). Với tinh thần thượng tôn pháp luật đó, Hiến pháp năm 1980 lần đầu tiên đã ghi nhận thành nguyên tắc hiến định về giá trị thi hành của các bản án, quyết định: Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm túc chấp hành (Điều 137).
Tiếp theo, Luật Tổ chức chính phủ đã đổi tên Hội đồng Chính phủ thành Hội đồng Bộ trưởng. Luật quy định danh sách các Bộ, trong đó có Bộ Tư pháp. Cũng ở thời điểm này, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1981 được Quốc hội thông qua ngày 03/7/1981 đã giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức. Nghị định số 143-HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp quy định Bộ Tư pháp có chức năng quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức và trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy chế chấp hành án. Sau khi được tái lập, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ nhiều hơn và có hệ thống tổ chức bộ máy đầy đủ hơn so với Bộ Tư pháp trước đây. Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ quản lý Toà án địa phương, trong đó có công tác thi hành án dân sự.
Ngày 18/7/1982, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên ngành số 472 về công tác quản lý thi hành án trong thời kỳ trước mắt, trong đó quy định: Tại các Toà án nhân dân cấp tỉnh có Phòng Thi hành án nằm trong cơ cấu bộ máy và biên chế của Toà án để giúp Chánh án chỉ đạo công tác thi hành án; tại các Toà án cấp huyện có Chấp hành viên hoặc cán bộ làm công tác thi hành án dưới sự chỉ đạo của Chánh án.
Đến ngày 28/8/1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự đầu tiên được ban hành, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, Quy chế Chấp hành viên đã được ban hành kèm theo Nghị định số 68/HĐBT ngày 06/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 và Quy chế Chấp hành viên thì chỉ có Chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Với việc ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, cơ chế thi hành án đã có bước thay đổi căn bản. Theo Pháp lệnh này, cơ chế kết hợp quyền tự định đoạt của đương sự với sự chủ động của Cơ quan thi hành án và Chấp hành viên đã tạo ra sự phát triển mới trong công tác thi hành án dân sự. Quyền tự định đoạt của đương sự, một trong những nguyên tắc đặc trưng của tố tụng dân sự, trước đây mới chỉ được áp dụng trong giai đoạn xét xử, thì nay đã được vận dụng trong giai đoạn thi hành án dân sự. Thi hành án dân sự là một giai đoạn độc lập tiếp theo giai đoạn xét xử, trong giai đoạn này người được thi hành vẫn có quyền tự định đoạt quyền lợi của mình, có quyền yêu cầu người phải thi hành án thi hành những phán quyết của Tòa án, nhưng cũng có quyền tự hòa giải, thỏa thuận với người phải thi hành án về phương thức thi hành, thậm chí không yêu cầu người phải thi hành án thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án. Quyền tự định đoạt của đương sự đã trở thành một nguyên tắc quan trọng trong công tác thi hành án dân sự. Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật của Nhà nước ta nói chung và lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng, tạo cơ sở pháp lý cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án trong giai đoạn này.
Trên cơ sở Hiến pháp 1992, Quốc hội khóa IX ban hành Nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ. Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 266-TTg ngày 02/6/1993 về việc triển khai việc bàn giao và tăng cường công tác thi hành án dân sự; liên ngành Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư liên ngành số 01-TTLN ngày 26/5/1993 hướng dẫn việc bàn giao công tác thi hành án dân sự. Những cơ sở pháp lý quan trọng này đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cải cách về công tác thi hành án dân sự từ đó đến nay. Giai đoạn này đã chứng kiến sự phát triển của các cơ quan Thi hành án dân sự cả về thể chế, tổ chức bộ máy và đội ngũ Chấp hành viên, công chức Thi hành án dân sự. Đó là: Trên cơ sở Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993, có hiệu lực kể từ ngày 17/4/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 30/CP ngày 02/6/1993 quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, các cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên. Theo đó, các cơ quan Thi hành án dân sự gồm có Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp; các Phòng Thi hành án cấp quân khu và tương đương. Ở Trung ương, Cục Quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có nhiệm vụ tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý tổ chức, chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự trong phạm vi toàn quốc.
Đến ngày 14/01/2004, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 với nhiều đổi mới quan trọng về thi hành án dân sự, trong đó có cả đổi mới về tổ chức, cán bộ các cơ quan thi hành án dân sự và trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Trên cơ sở của Pháp lệnh này, ngày 11/4/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50/2005/NĐ-CP về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự. Theo quy định của Nghị định số 50/NĐ-CP, Cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp được giao thêm nhiều nhiệm vụ quan trọng như tổ chức áp dụng thống nhất pháp luật về thi hành án dân sự trong toàn quốc, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo về thi hành án; giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý theo ngành dọc đối với cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện.
Để tiếp tục củng cố và hoàn thiện về tổ chức, bộ máy và cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thúc đẩy công tác thi hành án dân sự ngày càng hiệu quả, ngày 14/11/2008, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật Thi hành án dân sự năm 2008, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước tới nay. Tiếp theo đó, ngày 09/9/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự. Theo đó, Hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự được xác định rõ hơn theo nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến cấp huyện, với một vị thế mới, tương xứng với nhiệm vụ chính trị được giao và phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp.
Ngày 24/11/ 2010, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật Tố tụng hành chính, trong đó quy định cụ thể trình tự, thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm quản lý và thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính. Theo quy định tại Luật này, Bộ Tư pháp có trách nhiệm giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi hành án hành chính. Cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thi hành án hành chính trên phạm vi toàn quốc. Để triển khai thi hành Luật Tố tụng hành chính, ngày 25/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 17/CT-TTg về việc triển khai công tác thi hành án hành chính, trong đó giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan: Sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế công chức, tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ quan thi hành án dân sự bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả công tác thi hành án hành chính; ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hành chính để chỉ đạo, hướng dẫn và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về trình tự, thủ tục và những vấn đề khác có liên quan trong việc triển khai công tác thi hành án hành chính; thực hiện tốt việc kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác thi hành án hành chính...
Để tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, ngày 25/11/2014 tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2015; và đến ngày 20/7/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự. Các văn bản này đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho công tác thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong thời gian tới.
Kính thưa toàn thể các đồng chí !
Nhìn lại lịch sử hình thành, xây dựng và phát triển trong gần 70 năm qua có thể thấy, các cơ quan Thi hành án dân sự đã từng bước được xây dựng, củng cố, phát triển và lớn mạnh không ngừng, những thay đổi về tổ chức, những thành tựu đạt được và cả những hạn chế đã để lại những bài học quý giá cho hiện tại và tương lai của các cơ quan Thi hành án dân sự. Mặc dù trải qua nhiều thăng trầm, song các thế hệ cán bộ, công chức, người lao động trong các cơ quan Thi hành án dân sự rất đỗi vinh dự và tự hào về những chặng đường mà mình đã đi qua. Ở bất cứ thời điểm nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào, cán bộ, công chức, người lao động trong các cơ quan thi hành án dân sự vẫn đoàn kết, sáng tạo và nỗ lực phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao.
Đối với các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang, sau khi tiếp nhận bàn giao nhiệm vụ từ Ngành Tòa án vào tháng 6/1993, Phòng Thi hành án tỉnh Tuyên Quang đã tham mưu với Giám đốc Sở Tư pháp trong việc tập trung kiện toàn hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án từ tỉnh đến các huyện, thị xã. Tiếp theo đó thực hiện Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh, các cơ quan Thi hành án cấp huyện được tách ra và trở thành hệ thống cơ quan tương đối độc lập với cơ quan tư pháp địa phương, khẳng định rõ hơn vị thế, vai trò của cơ quan Thi hành án dân sự.
Thực hiện Luật Thi hành án dân sự năm 2008, hệ thống Thi hành án dân sự được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương. Căn cứ các quyết định của Bộ Tư pháp, Cục Thi hành án dân sự tỉnh, các Chi cục thi hành án dân sự cấp huyện được thành lập; chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy, cán bộ được xác định rõ ràng, cụ thể. Trong đó Cục Thi hành án dân sự tỉnh là cơ quan trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự, thực hiện nhiệm vụ thi hành án theo quy định của pháp luật; giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự quản lý một số mặt công tác tổ chức cán bộ, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự. Đây chính là điều kiện để phát triển đội ngũ cán bộ thi hành án theo hướng tiêu chuẩn hoá, chuyên môn hoá; từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; đồng thời tiếp tục khẳng định một vị thế mới của ngành Thi hành án dân sự tỉnh nhà, tương xứng với nhiệm vụ chính trị được giao và phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp.
Trải qua thời gian, các cơ quan Thi hành án dân sự của tỉnh đã không ngừng trưởng thành và lớn mạnh. Năm 1993, khi tách ra khỏi Tòa án, toàn ngành THADS của tỉnh chỉ có 20 biên chế (Phòng thi hành án 03 người, các Đội thi hành án 17 người), trong đó trình độ đại học pháp lý 01 người, cao đẳng toà án 01 người, trung cấp pháp lý 02 người, còn lại là trình độ sơ cấp pháp lý hoặc chưa qua đào tạo về luật (chủ yếu là bộ đội chuyển ngành). Thì đến nay, Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã có 04 phòng chuyên môn và 07 Chi cục trực thuộc, với tổng số 90 biên chế công chức, trong đó có 01 Chấp hành viên Cao cấp, 11 Chấp hành viên Trung cấp, 28 Chấp hành viên sơ cấp, 08 Thẩm tra viên, 20 Thư ký Thi hành án, 03 chuyên viên và tương đương, 11 kế toán, 01 cán sự, 07 công chức khác và gần 30 hợp đồng lao động, trên 80% là đảng viên. Chất lượng đội ngũ công chức ngày một được nâng lên, trên 90% có trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học và 4% trên đại học; gần 70% có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên.
Về chuyên môn: Mặc dù số lượng án phải thi hành tăng nhanh qua từng năm, nhất là về phần tiền (Giai đoạn 1993 – 2003, tổng số phải thi hành 15.130 việc, với giá trị hơn 36 tỷ đồng, bình quân mỗi năm thụ lý hơn 1.500 việc, với số tiền gần 4 tỷ đồng; đến giai đoạn 2004 – 2008, thụ lý thi hành gần 14.000 việc, với giá trị hơn 57 tỷ đồng, bình quân mỗi năm thụ lý 2.800 việc, số tiền hơn 10 tỷ đồng; từ năm 2009 đến nay, bình quân mỗi năm thụ lý hơn 4.000 việc với số tiền xấp xỉ 100 tỷ đồng) và phát sinh nhiều vụ việc phức tạp, khó thi hành, nhưng trong những năm qua các cơ quan Thi hành án dân sự trong tỉnh đã nỗ lực, cố gắng thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu do Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự giao (bình quân hằng năm giải quyết xong trên 95% về việc và trên 85% về tiền trong số có điều kiện thi hành); số lượng án tồn đọng đã giảm đáng kể qua từng năm (giai đoạn 1993 – 2003 án chuyển kỳ sau trên 3.700 việc; đến năm 2015, án chuyển kỳ sau chỉ còn gần 1.300 việc, trong đó có gần 1.000 việc chưa có điều kiện thi hành). Toàn tỉnh không phát sinh đơn thư khiếu nại, tố cáo bức xúc, kéo dài về công tác thi hành án dân sự. Với những kết quả đạt được như trên đã góp phần bảo đảm tốt hơn hiệu lực của các bản án, quyết định của toà án, hiện thực hóa các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và Nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Trụ sở làm việc, trang thiết bị, phương tiện làm việc của các cơ quan Thi hành án dân sự trong toàn tỉnh đã được quan tâm đầu tư. Hiện nay Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự đã và đang tiếp tục đầu tư xây dựng một số trụ sở và kho vật chứng cho một số Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Công tác đảng, hoạt động của các đoàn thể và các mặt công tác khác cũng đều được Cục và các Chi cục quan tâm toàn diện và đều đạt kết quả tốt; chế độ, chính sách đối với công chức, người lao động luôn được đảm bảo, đã góp phần động viên công chức, người lao động yên tâm công tác, đồng lòng phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Cùng với nhiệm vụ củng cố, kiện toàn tổ chức cán bộ, xây dựng ngành và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, các cơ quan Thi hành án dân sự của tỉnh đã chú trọng công tác chỉ đạo, phát động và tổ chức thực hiện phong trào thi đua rộng khắp, thu hút được đông đảo công chức trong toàn ngành tham gia, thực sự đã tạo khí thế thi đua sôi nổi, khơi dậy nguồn động lực mạnh mẽ, động viên công chức, người lao động phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo trong công tác để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Trong phong trào thi đua những năm qua, nhiều tập thể, cá nhân công chức, người lao động các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang đã được Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh biểu dương, khen thưởng với 09 lượt các đơn vị đạt Cờ thi đua xuất sắc của Ngành, đặc biệt ba năm liền 2007, 2008, 2009 Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang vinh dự được Bộ Tư pháp tặng Cờ đơn vị xuất sắc trong phong trào thi đua; được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng ba năm 2010; được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen có thành tích trong công tác thi hành án 5 năm (2001-2005) và tặng Bằng khen có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua yêu nước giai đoạn 2010 - 2015 và nhiều phần thưởng, danh hiệu thi đua khác do Bộ Tư pháp, UBND tỉnh trao tặng cho các cơ quan, công chức thi hành án dân sự trong tỉnh là minh chứng sinh động về sự đóng góp đáng kể công sức, trí tuệ của các thế hệ cán bộ, công chức cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang.
Để đạt được những thành tựu nói trên, bên cạnh sự nỗ lực, quyết tâm của các thế hệ công chức, người lao động các cơ quan Thi hành án dân sự trong tỉnh, còn có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sát sao của Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự phối hợp của các cấp, các ngành trong tỉnh. Nhân dịp buổi lễ trọng thể hôm nay, cho phép tôi được thay mặt đội ngũ công chức, người lao động các cơ quan Thi hành án dân sự trong tỉnh chân thành bày tỏ cảm ơn sự quan tâm, chỉ đạo của Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS, của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự phối hợp của các cấp, các ngành trong tỉnh đối với công tác thi hành án dân sự và hoạt động của các cơ quan THADS của tỉnh thời gian qua; đồng thời mong muốn tiếp tục nhận được sự chỉ đạo, giúp đỡ của các đồng chí trong thời gian tới.
Thưa các đồng chí !
Đến thời điểm này toàn Ngành đang chạy nước rút về đích để đạt các chỉ tiêu được giao, chỉ còn hơn 2 tháng nữa là kết thúc công việc của năm 2016 (theo quy định của ngành). Kết quả 9 tháng năm 2016 tỷ lệ phần việc thi hành xong hoàn toàn /số có điều kiện thi hành đạt 85% (vượt 12% so với chỉ tiêu Tổng cục giao), phần tiền đạt tỷ lệ 18% (thiếu 14% so với chỉ tiêu Tổng cục giao của cả năm 2016). Chúng ta chưa đạt chỉ tiêu giao về phần tiền và án tồn chuyển kỳ sau do có một số vụ việc phức tạp, giá trị phải thi hành lớn, đã kê biên tài sản, chuyển đơn vị bán đấu giá nhưng không bán được (do không có người mua) mặc dù đã giảm giá nhiều lần; một số việc đang chờ Tòa án xử lý chia tài sản có đồng sở hữu chung, hoặc chờ Tòa án giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm; mặt khác một số trường hợp do Chấp hành viên chưa thực sự quyết liệt để tập trung giải quyết công việc được phân công phụ trách, ngại kê biên cưỡng chế nên kéo dài vụ việc. Vì vậy, tôi đề nghị toàn thể công chức, người lao động trong các cơ quan Thi hành án dân sự của tỉnh cần nêu cao ý thức, tinh thần trách nhiệm, tập trung quyết liệt hơn nữa, đồng thời đẩy mạnh phong trào thi đua, trong đó lấy hoạt động chuyên môn làm trọng tâm, để phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu của Ngành giao.
Kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Thi hành án dân sự (19/7/1946 – 19/7/2016), chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước, các thế hệ cán bộ, công chức các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang có quyền tự hào về những tháng năm vượt khó hoàn thành tốt nhiệm vụ của thế hệ cha anh và viết tiếp những trang rạng ngời truyền thống ngành Tư pháp nói chung và hệ thống Thi hành án dân sự nói riêng.
Cuối cùng, thay mặt Lãnh đạo Cục và toàn thể công chức, người lao động các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang, tôi xin chân thành cảm ơn và kính chúc sức khỏe đồng chí Phùng Quang Đông – Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Nội chính Tỉnh ủy; đồng chí Nguyễn Hải Anh – Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, đồng chí Trần Thị Phương Hoa, Vụ trưởng Vụ TCCB, Tổng cục Thi hành án dân sự. Chúc các đồng chí đại biểu, công chức, người lao động và gia đình mạnh khỏe, hạnh phúc, thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công tác năm 2016.
Xin trân trọng cảm ơn !