Sign In

Cần cơ chế pháp lý nâng cao địa vị pháp lý của chấp hành viên

13/08/2021

Theo quy định tại Điều 17 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014(Luật THADS) thì Chấp hành viên (CHV) là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại Điều 2 của Luật THADS.Trong quá trình tổ chức thi hành án (THA), vai trò của  CHV đặc biệt quan trọng, là người giữ vị trí trung tâm của mọi hoạt động THADS. Tuy nhiên, quy định về quyền năng của CHV còn nhiều bất cập.
Mỗi Chấp hành viên phải thi hành hơn 200 việc/năm
Theo số liệu thống kê của Tổng cục THADS, trong 03 năm (từ 2018 đến năm 2020) tổng số việc và tiền phải thi hành của các cơ quan THADS đều tăng cao, cụ thể: Năm 2018, tổng số việc phải thi hành của các cơ quan THADS trong cả nước là 914.083 việc, tương ứng với số tiền phải thi hành là 178.628 tỷ đồng1; Năm 2019, tổng số việc phải thi hành là 959.508 việc tương ứng với số tiền là 273.748 tỷ đồng2;Năm 2020, tổng số phải thi hành là 885.833 việc tương ứng với số tiền trên293.869 tỷ đồng.  Có thể thấy, số lượng việc và tiền phải thi hành án ngày càng tăng cao về số lượng và giá trị, tính chất các vụ việc phải thi hành án ngày càng phức tạp3 trong khi đó số lượng CHV, trong khi số lượng CHV còn hạn chế.
Theo số liệu thống kê của Tổng Cục THADS, Bộ Tư pháp, số lượng CHV THADS trong năm 2020 có 4.099 CHV (giảm 39 CHVso với năm 2019), trong đó có 34 CHVcao cấp (chiếm 0,8%), 1382 CHV trung cấp (chiếm 33,7%) và 2683 CHVsơ cấp (chiếm 65,5%). Trong đó, lực lượng trực tiếp tổ chức thi hành án chủ yếu là đội ngũ CHV sơ cấp và CHV trung cấp. Tỷ lệ bình quân số việc THADS phải thi hành trên mỗi CHV năm 2020 là 216 việc, tương ứng với số tiền là 72 tỷ đồng. Từ đó có thể thấy  ngành THADS đang đứng trước sức ép rất lớn về tình trạng quá tải trong công việc, đặc biệt là đối với CHV ở những tỉnh, thành phố có lượng việc THADS lớn.
Có tìm hiểu và chứng kiến công việc hàng ngày của các CHV mới phần nào hiểu được những gian nan, vất vả của họ. Cùng với việc giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn giữa các đương sự qua các giai đoạn xét xử tại tòa án. Khi bản án, quyết định được đưa ra thi hành, chính CHV là người phải trực tiếp đối mặt với những bức xúc, mâu thuẫn này. Giữa áp lực của các bên đương sự, CHV không chỉ đối mặt với những nguy cơ đến từ phía người phải THA, mà còn cả từ phía người được THA. Bên được THA yêu cầu, hối thúc thực hiện; bên phải THA thì cố tình trốn tránh, gây sức ép, chống đối, trì hoãn nghĩa vụ THA …
Trong mỗi vụ việc, ở mỗi vùng miền, CHV lại gặp những khó khăn khác nhau khi tác nghiệp. Ví dụ như  CHV tại các vùng sông nước, để xuống thực địa phải thuê phương tiện giao thông đường thủy với chi phí đắt hơn nhiều so với các phương tiện giao thông đường bộ, trong khi kinh phí hạn chế; Ở những địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, đương sự là người dân tộc thiểu số, ngoài việc khắc phục những khó khăn về điều kiện đi lại, các CHV còn phải khắc phục những khó khăn về ngôn ngữ, phong tục, tập quán của từng vùng để hoàn thành nhiệm vụ...
Pháp luật quy định rất nhiều trình tự, thủ tục yêu cầu CHV phải thực hiện trong quá trình tổ chức THA, nhưng hiện nay vẫn chưa có kết quả đánh giá một cách chính xác, khoa học và cụ thể về khoảng thời gian và công sức cần thiết để CHV thực hiện hiệu quả mỗi trình tự, thủ tục THA. Ngoài ra, khả năng mỗi ngạch CHV khác nhau ( cao cấp, trung cấp, sơ cấp) trung bình mỗi năm thi hành được bao nhiêu việc THADS (việc THADS đơn giản, phức tạp, trọng điểm …) cũng khác nhau. Thực tế, rất khó để quy định “mức trần” cho CHV một năm phải thực thi bao nhiêu vụ việc THA, qua đó giao chỉ tiêu nhiệm vụ THADS, biên chế cũng như đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và năng lực của CHV. Về nguyên tắc, trách nhiệm, quyền lợi, mức lương, phụ cấp của các ngạch CHV như nhau là ngang nhau, các yêu cầu từ các quy phạm pháp luật phải thực hiện cũng như nhau. Như vậy, CHV thi hành 100 việc/năm cũng cơ bản giống như CHV phải thi hành số việc cao hơn rất nhiều lần, ví dụ 500, 700, 1000… việc/năm. Số lượng công việc nhiều dễ dẫn đến rủi ro nhiều trong khi thời hạn, trình tự, thủ tục, trách nhiệm pháp lý đã được luật hóa. Mặc dù những sai sót trong quá trình tổ chức THA có thể đó là lỗi vô ý, lỗi do khách quan (ví dụ, số lượng, áp lực công việc nhiều dẫn đến không thể thực hiện được các thủ tục THA đúng thời gian luật định…). Do đó, rất cần có một cơ chế bảo vệ CHV khi những rủi ro, những vi phạm đó là do quá tải công việc.
Thực tiễn tổ chức THA cho thấy, trình tự thủ tục THA hiện nay vẫn còn nmột số điểm bất cập, chưa phát huy được quyền chủ động của CHV. Một số yêu cầu của CHV không được tôn trọng, không đạt được mục đích và hiệu quả đề ra nhưng chế tài pháp lý lại chưa đủ mạnh. Ví dụ: Về yêu cầu người phải thi hành án phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình4. Quy định này nhằm khuyến khích sự tự nguyện thi hành án, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, ràng buộc trách nhiệm của người phải thi hành án đối với nghĩa vụ thi hành án, tuy nhiên thực tế người phải thi hành án rất hiếm khi tự nguyện kê khai thông tin tài sản, thu nhập của mình; hoặc chế tài xử lý trong trường hợp người phải THA không có mặt dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần vẫn còn chưa đủ mạnh5
Cần có chế tài mạnh xử với hành vi lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo
Điều 20 Luật THADS quy định: “Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, CHV được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín”. Tuy nhiên, nhìn từ thực tiễn, việc đảm bảo quyền được bảo vệ của CHV vẫn chưa thực sự được chú trọng. Thủ tục hay cơ chế xử lý những người, những hành vi xâm phạm sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm của CHV chưa thật sự rõ ràng và mang lại hiệu quả như mong đợi. Ví dụ: đương sự lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo CHV để nhằm kéo dài thời gian THA hoặc gây áp lực cho CHV, đương sự cố tình tung tin thất thiệt, bôi nhọ, nói xấu CHV…. Nhưng những hành vi lợi dụng quyền khiếu nại, quyền tố cáo hoặc những trường hợp xâm phạm trực tiếp đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của CHV vẫn còn diễn ra nhưng lại chưa có chế tài xử lý thích đáng, đủ sức răn đe.
Phát huy đầy đủ và toàn diện những quyền hạn, trách nhiệm của CHV có một ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với quá trình tổ chức THA mà còn góp phần hoàn thiện các quy định về chức danh tư pháp. Do đó, rất cần có một cơ chế pháp lý thật sự hữu hiệu để nâng cao địa vị pháp lý của CHV, tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới.
Ths. Hoàng Thanh Hoa
 Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Phú Xuyên, Hà Nội


1.Tổng số phải thi hành bằng tổng số thụ lý trừđi số vụ việcủy thác thi hành án.
2.Báo cáo số 234/BC-TKDLCN ngày 12/10/2020 của Trung tâm thống kê, Quản lý dữ liệu và Ứng dụng Công nghệ Thông tin, Tổng cục THADS về kết quả THADS 12 tháng năm 2020 (tháng 9 năm 2020)
3. Báo cáo số 157/BC-TCTHADS ngày 27/6/2019 của Tổng cục THADS tổng kết các nội dung, nhiệm vụ liên quan đến công tác cải cách tư pháp từ năm 2015 đến nay; mục tiêu, nhiệm vụ giai đoạn 2021-2030, tr. 21-22.
4. Điều 44 Luật THADS
5. Xem thêm: Hoàng Thị Thanh Hoa, xử phạt vi phạm hành chính trong THADS, Vì sao kém hiệu quả?; https://baophapluat.vn/xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-trong-thi-hanh-an-dan-su-vi-sao-kem-hieu-qua-post260211.html; ngày đăng: 16/10/2017; trc: 6/8/2021

Các tin đã đưa ngày: