Nợ xấu là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các tổ chức tín dụng, đặc biệt tại Việt Nam, tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang lại nguồn thu nhập lớn nhất song cũng là hoạt động mang lại rủi ro nhất. Để giải quyết vấn đề này, nhiệm vụ chính không chỉ riêng ngành ngân hàng mà cần phải huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc. Trong bối cảnh đó, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự cũng có vai trò quan trọng đối với việc thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng ngân hàng.
1. Pháp luật về thi hành án dân sự
1.1. Thi hành nghĩa vụ trả tiền
Nghĩa vụ thi hành án về tiền là khoản nghĩa vụ mà bản án, quyết định của người có thẩm quyền tuyên rõ bên có nghĩa vụ phải thanh toán tiền cho bên có quyền và được bảo đảm bằng tài sản. Tài sản này có thể được bảo đảm cho toàn bộ nghĩa vụ về tiền hoặc một phần nghĩa vụ về tiền do các bên thỏa thuận theo hợp đồng hoặc theo quy định pháp luật.
Theo quy định tại Điều 293 Bộ luật Dân sự 2015 thì “Phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm” sẽ xác định như sau:
“1. Nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi, tiền phạt và bồi thường thiệt hại
2. Nghĩa vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện.
3. Trường hợp bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai thì nghĩa vụ được hình thành trong thời hạn bảo đảm là nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là phạm vi về nghĩa vụ mà bên bảo đảm cam kết trước bên nhận bảo đảm sẽ bảo đảm việc thực hiện. Phạm vi này có thể một phần hoặc toàn bộ tùy theo thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác. Nếu không có thỏa thuận hoặc pháp luật không có quy định khác thì mặc nhiên nghĩa vụ dân sự được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại. Quy định trên có hai nội dung như sau:
- Khi áp dụng một biện pháp bảo đảm nào đó do thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định dựa trên thỏa thuận của các bên, nghĩa vụ chính sẽ được bảo đảm thực hiện một phần hoặc toàn bộ.
- Nếu không thỏa thuận hoặc pháp luật không quy định, biện pháp bảo đảm mà các bên áp dụng sẽ được dùng để bảo đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ kể cả nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại.
Mặt khác, nghĩa vụ dân sự được bảo đảm thực hiện có thể là nghĩa vụ hiện tại, có thể bao gồm cả nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện.
Nghĩa vụ hình thành trong tương lai là nghĩa vụ hình thành sau khi các bên xác lập biện pháp bảo đảm (ví dụ, đặt cọc bảo đảm cho nghĩa vụ trong tương lai hoặc bảo lãnh cho người sẽ vay tiền). Nghĩa vụ có điều kiện là loại nghĩa vụ do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định về điều kiện phát sinh hoặc điều kiện hủy bỏ nghĩa vụ (ví dụ, thế chấp để bảo đảm hợp đồng vay có điều kiện hủy bỏ hợp đồng khi bên vay sử dụng không đúng mục đích vay). Trường hợp nghĩa vụ hình thành trong tương lai mà phát sinh đúng thời hạn thỏa thuận thì mới được bảo đảm. Nếu nghĩa vụ phát sinh sau thời hạn thỏa thuận thì nghĩa vụ không được bảo đảm (ví dụ, A bảo lãnh cho B vay tiền của C trong tháng 10/2016. Tuy nhiên, tháng 12/2016 B mới vay C, trường hợp này hợp đồng vay không có biện pháp bảo đảm vì điều kiện bảo lãnh của A đã hết).
1.2. Thi hành nghĩa vụ tài sản
Thi hành nghĩa vụ về tài sản là nghĩa vụ mà bản án, quyết định tuyên một trong các bên phải thực hiện nghĩa vụ liên quan đến tài sản bảo đảm mà hết thời hạn tự nguyện bên có nghĩa vụ không thực hiện buộc cơ quan thi hành án dân sự phải áp dụng biện pháp xử lý theo quy định của Luật Thi hành án dân sự. Nghĩa vụ liên quan đến tài sản bảo đảm trong tín dụng ngân hàng thường xảy ra trong trường hợp hợp đồng thế chấp bảo đảm bằng tài sản bị tòa án tuyên là vô hiệu một phần và toàn bộ và tổ chức tín dụng thường là người phải thi hành án.
Trong trường hợp nhận thấy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất bị vô hiệu, một trong các bên thế chấp có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu. Căn cứ Điều 407, Điều 408 Bộ luật Dân sự 2015 thì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu do mục đích và nội dung của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc do hợp đồng thế chấp là giả tạo thì không bị hạn chế về thời hiệu; đối với các trường hợp khác như đã nêu trên thì thời hiệu là hai năm, kể từ ngày hợp đồng thế chấp được xác lập.
Khi hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất bị vô hiệu thì hậu quả pháp lý của nó căn cứ theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 thì:
- Không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập hợp đồng thế chấp đó.
- Khi hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất bị vô hiệu thì các bên khôi phục lại trạng thái ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
Như vậy, nếu hợp đồng thế chấp bị vô hiệu thì bên nhận thế chấp phải trả lại quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng các hồ sơ pháp lý khác cho bên thế chấp, đồng thời phải làm thủ tục xóa đăng ký thế chấp tại Văn phòng đăng ký nhà đất. Bên nhận thế chấp có quyền nhận lại những gì đã trao cho bên thế chấp hoặc bên thứ 3 trong hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm.
2. Áp dụng Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng
2.1. Quy định về xử lý tài sản theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng
Thứ nhất, về nguyên tắc xử lý nợ xấu: Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 42/2017/QH14) quy định khi xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu phải bảo đảm 04 nguyên tắc chung như sau:
Một là bảo đảm công khai, minh bạch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan;
Hai là phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống;
Ba là không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu;
Bốn là cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy ra nợ xấu và trong quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, về quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu: Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định khi khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm được xác định là nợ xấu thì tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.
Đây là biện pháp xử lý được tổ chức tín dụng thực hiện trước khi tổ chức tín dụng và người vay có tranh chấp và được giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án và phải đáp ứng được quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm, theo đó:
" Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
.....
d) Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật;...”
Như vậy, có thể nhận thấy việc ra đời Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã trao cho tổ chức tín dụng quyền quan trọng nhất là được thu giữ tài sản để xử lý theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Nghị quyết số 42/2017/QH14 cũng quy định cụ thể một số trường hợp tổ chức tín dụng, công ty mua bán nợ không được thu giữ tài sản để xử lý theo quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 là trường hợp tài sản bảo đảm có tranh chấp đã được tòa án thụ lý giải quyết; tài sản bảo đảm đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; tài sản bảo đảm đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án.
Thứ ba, tổ chức tín dụng yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc xử lý tài sản theo nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đối với các tài sản bảo đảm không đủ điều kiện áp dụng biện pháp thu giữ, bán nợ hoặc áp dụng thủ tục rút gọn thì ngân hàng buộc phải khởi kiện theo trình tự thông thường, việc này mất rất nhiều thời gian. Bên cạnh đó, một số khoản vay, khách hàng của tổ chức tín dụng có liên quan đến các vụ án và đang trong quá trình điều tra, xét xử nên việc xử lý tài sản bảo đảm, khoản nợ cần phải được có sự chấp thuận của cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an. Mặc dù Tòa án nhân tối cao đã có công văn số 152/TANDTC-PC ngày 19.7.2017 hướng dẫn tòa án các cấp giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, xử lý nợ xấu nhưng thực tế, vẫn cần có hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao về việc áp dụng các thủ tục tố tụng rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án. Do đó, hầu hết các vụ việc toà án xét xử có hiệu lực pháp luật thì tổ chức tín dụng phải làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục thi hành án dân sự.
2.2. Quy định của pháp luật về thi hành án dân sự liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng trước khi có Nghị quyết số 42/2017/QH14
2.2.1. Trường hợp tổ chức tín dụng là người được thi hành án
Trước khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 có hiệu lực, pháp luật về thi hành án dân sự cũng đã quy định khá cụ thể khi xử lý tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng. Cụ thể là quyền ưu tiên thanh toán theo khoản 3 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự. Theo đó, khi cơ quan thi hành án dân sự thu tiền từ việc xử lý tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng, sau khi trừ chi phí liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm, án phí theo bản án và khoản tiền hỗ trợ người phải thi hành án thuê nhà 1 năm trong trường hợp xử lý tài sản là nhà ở duy nhất của người phải thi hành án thì ưu tiên thanh toán cho tổ chức tín dụng.
2.2.2. Trường hợp tổ chức tín dụng là người nhận thế chấp tài sản của người phải thi hành án (người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan)
Điều 90 Luật Thi hành án dân sự quy định trong trường hợp xử lý tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng khi tổ chức tín dụng không phải là người được thi hành án mà là người nhận thế chấp tài sản của đối tượng phải thi hành án. Theo đó, trong quá trình tổ chức thi hành án nếu cơ quan thi hành án dân sự xác minh được người phải thi hành án có tài sản thế chấp bảo đảm tại tổ chức tín dụng mà không còn tài sản nào khác để bảo đảm thi hành án thì có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án và trong trường hợp này khoản nghĩa vụ được bảo đảm của tổ chức tín dụng đó được ưu tiên thanh toán. Đồng thời, khoản 3, Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP cũng quy định: “Đối với tài sản đã được cầm cố, thế chấp hợp pháp mà kết quả xác minh tại thời điểm thi hành án cho thấy tài sản có giá trị bằng hoặc nhỏ hơn nghĩa vụ phải thanh toán theo hợp đồng cầm cố, thế chấp thì Chấp hành viên phải thông báo bằng văn bản cho người nhận cầm cố, thế chấp biết nghĩa vụ của người phải thi hành án và yêu cầu khi thanh toán hết nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc khi xử lý tài sản cầm cố, thế chấp phải thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự biết.”Cơ quan thi hành án dân sự kê biên tài sản sau khi đã được giải chấp hoặc thu phần tiền còn lại sau khi xử lý tài sản để thanh toán hợp đồng đã ký, nếu có.
Tuy nhiên, pháp luật về thi hành án dân sự cũng quy định trong trường hợp khi Chấp hành viên kê biên xử lý tài sản theo Điều 90 Luật Thi hành án dân sự mà quá trình xử lý tài sản thế chấp kết quả cho thấy sau nhiều lần giảm giá mà giá của tài sản sau khi giảm giá không lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án thì người có thẩm quyền ra quyết định về thi hành án có trách nhiệm ra ngay quyết định thu hồi quyết định cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 37 Luật Thi hành án dân sự. Đồng thời, có văn bản yêu cầu người nhận cầm cố, nhận thế chấp thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC. Như đối với ví dụ nêu trên nếu Chấp hành viên xác minh xác định giá tài sản của ông C là 2 tỷ thì chấp hành viên tiến hành kê biên xử lý theo quy định nhưng trường hợp sau khi kê biên bán đấu giá và sau nhiều lần giảm giá giá trị tài sản của ông C không lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm là 1,2 tỷ và chi phí cưỡng chế thi hành án thì Chấp hành viên có trách nhiệm ra ngay quyết định thu hồi quyết định cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 37 Luật Thi hành án dân sự và thông báo bằng văn bản cho Ngân hàng X theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC.
3. Mối quan hệ giữa Nghị quyết 42/2014/QH14 với Luật Thi hành án dân sự liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng
Trước hết phải khẳng định rằng toàn bộ các vụ việc thi hành án liên quan đến án tín dụng ngân hàng hiện nay do cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành án ngoài việc áp dụng trình tự thủ tục của pháp luật về thi hành án dân sự thì chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Nghị quyết số 42/2017/QH14. Mặt khác, khoản 2 Điều 17 Nghị quyết số 42/2017/QH14 cũng quy định “Trường hợp có quy định khác nhau giữa Nghị quyết này và luật khác về cùng một vấn đề về xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu thì áp dụng quy định của Nghị quyết này”. Do đó, có thể nói Luật Thi hành án dân sự đang chịu sự điều chỉnh của Nghị quyết số 42/2017/QH14 đối với các vụ việc thi hành án liên quan đến tín dụng ngân hàng, đồng thời Luật Thi hành án dân sự có tác động tích cực đến hiệu quả của việc thi hành Nghị quyết số 42/2017/QH14.
3.1. Mối quan hệ trong việc thu giữ tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 42/2017/QH14. Trong đó có điều kiện “…Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật...”. Như vậy, theo quy định này thì đối với những tài sản bảo đảm mà cơ quan thi hành án dân sự đang kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định pháp luật thì tổ chức tín dụng không được quyền thu giữ tài sản trừ trường hợp các bên đương sự có thỏa thuận.
3.2. Mối quan hệ trong việc kê biên tài sản bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tại các tổ chức tín dụng
Điều 11 Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định: “Các tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên phải thi hành án đang bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định tại Điều 90 của Luật Thi hành án dân sự, trừ trường hợp thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và trường hợp có sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu.”
Như vậy, theo quy định trên có thể thấy khi cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành án mà xác định người phải thi hành án có tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại các tổ chức tín dụng thì phải áp dụng quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự và quy định tại Điều 11 Nghị quyết số 42/2017/QH14 để giải quyết.
Quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã hạn chế phần nào quyền của Chấp hành viên khi xử lý tài sản của người phải thi hành án theo Điều 90 Luật Thi hành án dân sự. Thực tế hiện nay cho thấy, các vụ việc thi hành án mà cơ quan thi hành án dân sự thụ lý giải quyết khi xác minh tài sản thì hầu hết tài sản đều đang thế chấp bảo đảm tại các tổ chức tín dụng.
Ngoài ra, Điều 13 Nghị quyết số 42/2017/QH14 cũng quy định tổ chức tín dụng được quyền bán khoản nợ xấu mà khoản nợ xấu đó có tài sản bảo đảm đang bị kê biên cho tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu, doanh nghiệp có chức năng kinh doanh mua, bán nợ. Tổ chức tín dụng có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin về tình trạng bị kê biên của tài sản bảo đảm trước khi thực hiện mua, bán khoản nợ xấu; bên mua tự xác định rủi ro đối với việc mua khoản nợ này. Việc bán tài sản bảo đảm đang bị kê biên được thực hiện theo quy định của pháp luật.
3.3. Mối quan hệ trong việc thanh toán tiền thi hành án
Mối quan hệ giữa Điều 47 Luật Thi hành án dân sự với Điều 12 Nghị quyết số 42/2017/QH14 được thể hiện như sau:
Khoản 3 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự quy định khi xử lý tài sản cầm cố, thế chấp thì số tiền thu được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp được ưu tiên thanh toán cho bên nhận cầm cố, thế chấp hoặc bên có nghĩa vụ được bảo đảm sau khi trừ án phí của bản án, quyết định đó, chi phí cưỡng chế và khoản tiền quy định tại khoản 5 Điều 115 Luật Thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, Điều 12 Nghị quyết số 42/2017/QH14 quy định: “Số tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý tài sản bảo đảm được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ khác không có bảo đảm của bên bảo đảm. Trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm thực hiện theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, có thể thấy mối liên hệ giữa hai điều luật này nhằm hướng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức tín dụng trong việc thu hồi các khoản nợ xấu. Việc xử lý tải sản thi hành án vẫn được thực hiện theo trình tự thủ tục theo quy định của Luật Thi hành án dân sự. Tuy nhiên, khi thực hiện thanh toán tiền thi hành án từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý tài sản bảo đảm được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho tổ chức tín dụng. Quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã thu hẹp các khoản được ưu tiên thanh toán theo quy đinh của Luật Thi hành án dân sự.
Sau thời gian thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14, các cơ quan thi hành án dân sự địa phương đã phản ánh về một số nội dung khó khăn, vướng mắc phát sinh (khoản tiền hỗ trợ thuê nhà cho người phải thi hành án, khoản tiền thuế thu nhập cá nhân, khoản án phí trong các vụ việc tín dụng, ngân hàng). Để giải quyết vướng mắc, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Ngân hàng Nhà nước và các Bộ, Ngành liên quan báo cáo Chính phủ để kịp thời tháo gỡ, cơ bản đã được giải quyết, theo đó: Số tiền bán tài sản của khoản nợ xấu được ưu tiên thanh toán án phí của vụ việc đó trước khi thanh toán nghĩa vụ bảo đảm, đối với khoản thuế thu nhập cá nhân và tiền hỗ trợ thuê nhà (1 năm) cho người phải thi hành án trong vụ việc đó thì các tổ chức tín dụng chủ động phối hợp thoả thuận với các bên có liên quan để thực hiện.
Hiện nay, Quốc hội thống nhất kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 từ ngày 15/8/2022 đến hết ngày 31/12/2023. Đồng thời, giao Chính phủ nghiên cứu, đề xuất luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu cùng với việc rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng (Ngày 16/6/2022, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 63/2022/QH15 thống nhất việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14).
Để tiếp tục triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 42/2017/QH14 trong thời gian kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết, Ngân hàng Nhà Nước yêu cầu các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC tiếp tục triển khai đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu, tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14; đồng thời, tiếp tục chủ động, tích cực phối hợp với Chính quyền địa phương, cơ quan công an, thi hành án dân sự, cơ quan thuế, tòa án các cấp và các cơ quan liên quan để thực thi có hiệu quả các chính sách tại Nghị quyết số 42/2017/QH14, đặc biệt là các chính sách về thu giữ tài sản đảm bảo (Điều 7), áp dụng thủ tục rút gọn trong tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án (Điều 8), thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm (Điều 12, Điều 15), các thủ tục liên quan đến chuyển nhượng tài sản bảo đảm, đăng ký biến động quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai (Điều 9, Điều 15).
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang chủ trì tham mưu xây dựng trình Quốc hội dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), dự thảo Luật bổ sung quy định nhằm luật hoá quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14.
Đậu Thị Hiền – Vụ Nghiệp vụ 1
Theo Cổng thông tin điện tử Tổng cục THADS