1. Cơ sở pháp lý
Với mục tiêu đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, thời gian qua, Đảng đã ban hành nhiều Nghị quyết, văn bản xác định rõ chủ trương, định hướng, các giải pháp thực hiện như: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Quy định số 132-QĐ/TW ngày 27/10/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và nhiều chủ trương quan trọng khác. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022, xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2045, mục tiêu cụ thể đến năm 2030, thống nhất nhận thức về các đặc trưng của NNQP Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đề ra 10 nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện các mục tiêu này. Trong đó Nghị quyết xác định rõ định hướng đối với công tác thi hành án trong thời gian tới: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án... Hoàn thiện cơ chế nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THADS, hành chính theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan trong thi hành án hình sự, dân sự và hành chính; thực hiện xã hội hóa một số hoạt động THADS với cơ chế bảo đảm và lộ trình phù hợp”. Ngoài ra, Nghị quyết số 27-NQ/TW cũng yêu cầu tăng cường kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác thi hành án.
Để đáp ứng yêu cầu nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác THADS, ngày 13/01/2023 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 17/QĐ-TTg ngày 13/01/2023 phê duyệt Đề án Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự đối với các bản án, quyết định kinh doanh thương mại, trong đó có nội dung Chính phủ giao Bộ Tư pháp “Nghiên cứu, đề xuất, trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, trong đó, tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục xử lý tài sản thi hành án là cổ phần, cổ phiếu, vốn góp (xác minh giá trị phần vốn góp, kê biên, thẩm định, bán đấu giá phần vốn góp, cổ phần, cổ phiếu...)”. Đây là những cơ sở quan trọng để hoàn thiện hành lang pháp lý về THADS.
2. Cơ sở thực tiễn
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ) được ban hành đã góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế pháp luật về thi hành án dân sự (THADS); tạo hành lang pháp lý về THADS ngày càng đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu thực tiễn; trình tự, thủ tục thi hành án được quy định đầy đủ, cụ thể, dễ thực hiện hơn. Qua hơn 8 năm thực hiện, Nghị định đã phát huy hiệu quả, tác động tích cực tới công tác THADS; kết quả THADS năm sau luôn cao hơn năm trước; đội ngũ cán bộ, công chức THADS ngày càng vững mạnh; các điều kiện đối với công tác THADS được đảm bảo ngày càng tốt hơn, tạo điều kiện thuận lợi, nâng cao hiệu quả công tác này… Công tác THADS đã có tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế, xã hội; góp phần giữ gìn ANCT, TTATXH của đất nước trong những năm qua.
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện, Nghị định đã bộc lộ những vướng mắc, bất cập cần được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện, cụ thể như sau:
- Một số quy định của Nghị định chưa phù hợp với thực tiễn công tác THADS hiện nay như: quy định về kê biên tương ứng nghĩa vụ của người phải thi hành án; Chấp hành viên thực hiện phân chia tài sản chung của người phải thi hành án; quy định về trang phục cho công chức, người lao động THADS chưa phù hợp với đặc thù vùng miền trên cả nước.
- Một số quy định thiếu cụ thể, rõ ràng dẫn đến cách hiểu và thực hiện chưa thống nhất như: Về việc xử lý khoản tiền đặt trước trong trường hợp người mua trúng đấu giá từ chối mua tài sản, đã ký hợp đồng mua bán tài sản nhưng chưa thanh toán thêm bất kỳ khoản nào, không nộp tiền đầy đủ hoặc không đúng hạn theo hợp đồng mua bán tài sản; việc xác định khoản lãi tiền gửi của số tiền bán đấu giá thành tài sản trong thời gian chưa giao được tài sản cho người mua trúng đấu giá; các trường hợp khó khăn, phức tạp để kéo dài thời hạn giao tài sản cho người mua trúng đấu giá; hủy Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá trường hợp người mua trúng đấu giá không nộp đủ tiền hoặc không đúng thời hạn theo quy định; áp dụng tiêu chí lựa chọn tổ chức đấu giá theo Luật THADS và Luật Đấu giá tài sản...
- Một số nội dung còn thiếu trong Nghị định cần bổ sung để nâng cao hiệu quả công tác THADS và đồng bộ với quy định của pháp luật khác có liên quan như: về xử lý đối với một số loại tài sản đặc thù cổ phần, cổ phiếu, vốn góp theo quy định tại Điều 83, Điều 92 Luật THADS; xác định sự kiện bất khả kháng trong trường hợp dịch bệnh; về việc sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong xác minh điều kiện thi hành án.
Từ những lý do trên, việc ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng Nghị định, nâng cao hiệu quả công tác THADS là yêu cầu cần thiết hiện nay.
3. Một số nội dung cấp thiết đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
- Bổ sung quy định về sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan do dịch bệnh theo công bố của Chính phủ
Trong thời gian qua, các cơ quan THADS phản ánh về các trường hợp vi phạm thời hạn tổ chức thi hành án do diễn ra đại dịch Covid 19 như: thời hạn thực hiện các trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án, thời hạn yêu cầu thi hành án của đương sự bị ảnh hưởng nhưng pháp luật về THADS chưa có quy định về việc không tính vào thời hạn, thời hiệu. Nhiều trường hợp đương sự làm đơn yêu cầu thi hành án quá thời hiệu yêu cầu thi hành án, Chấp hành viên chậm tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật dẫn đến khiếu nại, tố cáo, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.
Do đó đề xuất sửa điểm a khoản 3 Điều 4 theo hướng bổ sung dịch bệnh đã được Chính phủ công bố là sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
- Bổ sung quy định về việc cơ quan THADS được tiếp cận cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong hoạt động xác minh điều kiện thi hành án
Hiện nay, với sự phát triển của công nghệ 4.0 thì cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là một bước tiến mới trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước và phục vụ người dân, góp phần chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ số, xã hội số, kinh tế số, công dân số. Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư mang lại nhiều lợi ích như: Giảm thiểu chi phí và thời gian khi làm các thủ tục hành chính liên quan đến thông tin cá nhân; tăng cường tính minh bạch và công khai trong quản lý nhà nước và giao dịch của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Do đó, nếu có cơ chế tạo điều kiện cho cơ quan THADS được phép truy cập thông tin của đương sự thông qua cơ sở dữ liệu quốc gia thì việc xác minh của cơ quan THADS sẽ giảm tải chi phí, thời gian và hiệu quả hơn.
Do đó, bổ sung vào khoản 1 Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP theo hướng quy định cho phép Chấp hành viên được truy cập vào dữ liệu thông tin cá nhân của cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong xác minh điều kiện thi hành án.
- Sửa đổi quy định về kê biên tài sản tương ứng với nghĩa vụ trong THADS: Về việc áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án tương ứng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 13: Việc áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí thi hành án theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp tài sản duy nhất của người phải thi hành án lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản; tài sản bảo đảm đã được bản án, quyết định tuyên xử lý để thi hành án hoặc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 24 Nghị định này.
Tuy nhiên, pháp luật chưa có quy định về việc hạn chế giao dịch các tài sản còn lại. Dẫn đến nhiều trường hợp quá trình xử lý tài sản kê biên (tương ứng) giảm giá nhiều lần bán đấu giá không thành, giá trị tài sản giảm thấp hơn nhiều lần nghĩa vụ phải thi hành án. Chấp hành viên không có căn cứ để tiếp tục xử lý tài sản tiếp theo hoặc các tài sản đó đương sự đã thực hiện các giao dịch khác dẫn đến việc xử lý khó khăn.
Do đó đề xuất sửa khoản 1 Điều 13 theo hướng khi xử lý tài sản tương ứng, người phải thi hành án bị hạn chế quyền thực hiện giao dịch đối với các tài sản khác cho đến khi thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án. Chấp hành viên được tiếp tục xử lý tài sản khác nếu quá trình xử lý tài sản không đáp ứng điều kiện tương ứng.
- Bổ sung quy định về xử lý đối với một số loại tài sản đặc thù cổ phần, cổ phiếu, vốn góp theo quy định tại Điều 92, Điều 83 Luật THADS: Luật THADS và Nghị định chưa quy định về trình tự, thủ tục kê biên, bán vốn góp, giấy tờ có giá. Cơ quan THADS lúng túng khi áp dụng các quy định nêu trên như thủ tục định giá, bán đấu giá, thực hiện thủ tục cho người mua trúng đấu giá..., mỗi cơ quan có cách xử lý khác nhau dẫn đến hiệu quả công tác THADS không cao.
Do đó, đề xuất bổ sung thêm quy định theo hướng áp dụng dẫn chiếu đến các quy định pháp luật có liên quan để phù hợp và thống nhất áp dụng trong toàn hệ thống THADS.
- Bổ sung trình tự thủ tục thực hiện chuyển giao quyền thi hành án theo quy định tại khoản 4 Điều 54 Luật THADS.
Tại khoản 4 Điều 54 Luật THADS quy định “Trường hợp đương sự thỏa thuận về việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ về thi hành án cho người thứ ba thì người thứ ba có quyền, nghĩa vụ của đương sự”; khoản 2 Điều 15 Nghị định 62/2015/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP quy định: “…Trường hợp người được thi hành án chuyển giao một phần hoặc toàn bộ quyền được thi hành án của mình cho người thứ ba thì người thứ ba trở thành người được thi hành án tương ứng với phần quyền được chuyển giao và có các nghĩa vụ của người được thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự. Người chuyển giao quyền về thi hành án phải thông báo bằng văn bản cho người phải thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức việc thi hành án biết về việc chuyển giao quyền về thi hành án. Việc chuyển giao quyền về thi hành án không cần có sự đồng ý của người phải thi hành án, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.”
Tuy nhiên, cơ quan THADS lúng túng khi áp dụng khoản 4 Điều 54 Luật THADS, cụ thể: đối với trường hợp đương sự thỏa thuận chuyển giao quyền, nghĩa vụ về thi hành án cho người thứ ba thì cơ quan THADS phải thực hiện thủ tục gì đề xác định quyền, nghĩa vụ của họ đã thay đổi vì pháp luật hiện hành chỉ quy định Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định thi hành án mới, thu hồi quyết định thi hành án cũ cho trường hợp chuyển giao theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 54 Luật THADS, đối với khoản 4 thì chưa có quy định cụ thể.
Do đó, đề xuất sửa đổi bổ sung theo hướng Trường hợp người được thi hành án chuyển giao một phần hoặc toàn bộ quyền được thi hành án của mình cho người thứ ba thì người thứ ba trở thành người được thi hành án ... Việc chuyển giao quyền về thi hành án không cần có sự đồng ý của người phải thi hành án, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác. Cơ quan THADS thu hồi quyết định thi hành án cũ, ban hành quyết định thi hành án mới tương ứng với phần quyền, nghĩa vụ được chuyển giao, trong đó ghi cụ thể về việc kết quả thi hành án trước đó được công nhận, các văn bản về thi hành án trước đó được giữ nguyên (trừ trường hợp có sự thỏa thuận khác). Quy định này nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người nhận chuyển giao quyền theo quy định của pháp luật về THADS.
- Bổ sung quy định cụ thể về lựa chọn tổ chức bán đấu giá: Hiện nay, pháp luật về THADS quy định trường hợp tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản chưa có tổ chức bán đấu giá hoặc có nhưng tổ chức bán đấu giá từ chối ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản thì Chấp hành viên bán đấu giá tài sản kê biên.
Tuy nhiên, hiện nay pháp luật về bán đấu giá tài sản quy định về việc lựa chọn tổ chức bán đấu giá theo quy định tại Điều 56 Luật Đấu giá tài sản và Điều 4 Thông tư 02/2022/TT-BTP ngày 08/2/2022 hướng dẫn lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản thì “Sau khi có quyết định của người có thẩm quyền về việc đấu giá tài sản, người có tài sản đấu giá thông báo công khai trên trang thông tin điện tử của mình và Cổng thông tin điện tử quốc gia về đấu giá tài sản về việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản với đầy đủ tiêu chí quy định tại Điều 3 và Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư này”.
Các quy định này phát sinh hai quan điểm khác nhau trong việc áp dụng tiêu chí lựa chọn tổ chức đấu giá theo Luật THADS và Luật Đấu giá tài sản: Quan điểm thứ nhất cho rằng áp dụng quy định của pháp luật về THADS thì chỉ được lựa chọn tổ chức trên địa bàn nơi có tài sản bán đấu giá để bảo đảm tính thuận tiện, phù hợp trong công tác bán tài sản; quan điểm thứ hai cho rằng phải áp dụng quy định của pháp luật về đấu giá để lựa chọn tổ chức đủ điều kiện mà không giới hạn địa giới hành chính để bảo đảm tính công khai, minh bạch.
Do đó, đề xuất sửa đổi bổ sung quy định bổ sung về tiêu chuẩn lựa chọn tổ chức bán đấu giá theo hướng trường hợp đương sự không thỏa thuận được thì Chấp hành viên lựa chọn tổ chức bán đấu giá để ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản theo pháp luật về đấu giá tài sản mà không giới hạn việc lựa chọn tổ chức bán đấu giá trên địa bàn có tài sản để đảm bảo tính cạnh tranh, công khai, minh bạch của hoạt động này.
- Bổ sung quy định về hủy Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá: tại đoạn 3 khoản 4 Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định “trường hợp đến hạn theo hợp đồng bán đấu giá tài sản mà không giao được tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá thì người này có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng”. Tuy nhiên, thực tế quá trình tổ chức thi hành án hiện nay những trường hợp người mua trúng đấu giá không nộp đủ tiền hoặc không đúng thời hạn theo quy định tại khoản Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP “Người mua được tài sản bán đấu giá phải nộp tiền vào tài khoản của cơ quan thi hành án dân sự trong thời hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày đấu giá thành và không được gia hạn thêm” thì chưa có cơ chế quy định cho cơ quan THADS (người có tài sản bán đấu giá) được hủy hợp đồng mua bán.
Do đó, đề xuất quy định bổ sung hủy hợp đồng mua bán tài sản thi hành án theo hướng trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá không nộp hoặc chậm nộp theo thời hạn này thì người có tài sản đấu giá có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng mua bán tài sản nhằm bảo đảm tính ràng buộc của hợp đồng mua bán và là cơ sở để cơ quan THADS xử lý tài sản theo quy định của pháp luật.
- Sửa đổi quy định về thời hạn giao tài sản bán đấu giá thành: Tại khoản 3 Điều 27 quy định: “Trong thời hạn không quá 30 ngày, trường hợp khó khăn, phức tạp thì không quá 60 ngày, kể từ ngày người mua được tài sản nộp đủ tiền, cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức việc giao tài sản cho người mua được tài sản, trừ trường hợp có sự kiện bất khả kháng...”.
Quy định “trường hợp khó khăn, phức tạp” nêu trên chưa thật cụ thể, rõ ràng, dẫn đến cách hiểu và thực hiện khác nhau, có thể dẫn đến bị lợi dụng để hình thành cơ chế “xin - cho” trong việc giao tài sản cho người mua trúng đấu giá tài sản thi hành án hoặc kéo dài thời hạn giao tài sản cho người mua trúng tài sản đấu giá để thi hành án.
Do đó, đề xuất sửa đổi quy định quy định cụ thể về thời hạn tối đa cơ quan THADS phải giao tài sản cho người mua trúng đấu giá theo hướng không quy định trường hợp khó khăn, phức tạp nhằm bao quát được các tình huống có thể xảy ra trên thực tế hạn chế các trường hợp khiếu nại, tố cáo kéo dài.
- Bổ sung quy định cụ thể hơn về việc xác định khoản lãi tiền gửi của số tiền bán đấu giá thành tài sản trong thời gian chưa giao được tài sản cho người mua trúng đấu giá: Hiện nay, theo quy định tại khoản 4 Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP có hai cách hiểu khác nhau về chủ thể được hưởng khoản tiền lãi từ số tiền người mua trúng đấu giá nộp, cụ thể:
Ý kiến thứ nhất: Không giao được tài sản là trường hợp kết quả bán đấu giá, hợp đồng mua bán tài sản bị cơ quan có thẩm quyền hủy hoặc thỏa thuận hủy theo quy định của pháp luật thì phần lãi đối với khoản tiền gửi thuộc về người mua trúng đấu giá. Trong trường hợp chậm giao tài sản cho người mua trúng đấu giá (từ ngày thứ 61 đến thời điểm giao được tài sản), thì phần lãi tiền gửi được cộng vào số tiền gửi ban đầu để thi hành án (người phải thi hành án vẫn phải chịu lãi suất chậm thi hành án).
Ý kiến thứ hai: Trong thời hạn tối đa 60 ngày, kể từ ngày người mua được tài sản nộp đủ tiền mà không có sự kiện bất khả kháng thì cơ quan THADS phải có trách nhiệm giao tài sản cho người mua. Trong khoảng thời gian này thì khoản lãi tiền gửi ngân hàng phát sinh từ khoản tiền mua tài sản đấu giá được cộng vào số tiền gửi ban đầu để thi hành án.
Từ ngày thứ 61 trở đi, kể từ ngày người mua tài sản nộp đủ tiền đến thời điểm giao được tài sản thì chia làm hai trường hợp: (i) Trường hợp 1: nếu việc chậm giao tài sản thuộc trường hợp bất khả kháng thì khoản lãi tiền gửi ngân hàng phát sinh từ khoản tiền mua tài sản đấu giá được cộng vào số tiền gửi ban đầu để thi hành án; (ii) Trường hợp 2: nếu việc chậm giao tài sản không thuộc trường hợp bất khả kháng, có lỗi của người phải thi hành án, người có tài sản bị xử lý mà cơ quan THADS phải áp dụng biện pháp cưỡng chế giao tài sản thì khoản lãi tiền gửi ngân hàng phát sinh từ khoản tiền mua tài sản đấu giá thuộc về người mua tài sản.
Do đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định việc xác định khoản lãi tiền gửi của số tiền bán đấu giá thành tài sản trong thời gian chưa giao được tài sản cho người mua trúng đấu giá theo hướng trường hợp quá thời hạn theo quy định tại khoản 3 Điều này, nếu cơ quan THADS chưa giao được tài sản do sự kiện bất khả kháng thì khoản lãi tiền gửi ngân hàng phát sinh từ khoản tiền mua tài sản đấu giá được cộng vào số tiền gửi ban đầu để thi hành án; trường hợp cơ quan THADS chưa giao được tài sản mà không thuộc trường hợp bất khả kháng, có lỗi của người phải thi hành án, người có tài sản bị xử lý mà cơ quan THADS phải áp dụng biện pháp cưỡng chế giao tài sản thì khoản lãi tiền gửi ngân hàng phát sinh từ khoản tiền mua tài sản đấu giá thuộc về người mua tài sản. Quy định này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, người mua trúng đấu giá tài sản.
- Bổ sung quy định về việc xử lý khoản tiền đặt trước trong trường hợp người mua trúng đấu giá từ chối mua tài sản hoặc đã ký hợp đồng mua bán tài sản nhưng chưa thanh toán thêm bất kỳ khoản nào hoặc không thực hiện đầy đủ hoặc không đúng hạn nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng mua bán tài sản.
Tại đoạn 1 khoản 5 Điều 27 Nghị định 62/2015/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 12 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP) quy định: “Trường hợp sau khi phiên đấu giá kết thúc mà người trúng đấu giá tài sản từ chối mua hoặc đã ký hợp đồng mua bán tài sản đấu giá nhưng chưa thanh toán thêm bất kỳ khoản nào thì sau khi trừ chi phí đấu giá tài sản, khoản tiền đặt trước thuộc về ngân sách nhà nước và được sử dụng để thanh toán lãi suất chậm thi hành án, tạm ứng chi phí bồi thường Nhà nước, bảo đảm tài chính để thi hành án và các chi phí cần thiết khác.” Quy định này phù hợp với quy định tại khoản 8 Điều 12 Thông tư số 200/2016/TT-BTC quy định: 8. Khoản tiền đặt trước mà người trúng đấu giá tài sản từ chối mua sau khi phiên đấu giá kết thúc hoặc đã ký hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá nhưng chưa thanh toán thêm bất kỳ khoản tiền nào quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP được sử dụng để thanh toán các khoản theo thứ tự sau đây: a) Lãi suất chậm thi hành án của vụ việc liên quan đến bảo đảm tài chính và bồi thường Nhà nước; b) Ứng chi phí bồi thường Nhà nước theo quy định của Luật Trách nhiệm Bồi thường của Nhà nước; c) Bảo đảm tài chính để thi hành án; d) Các chi phí cần thiết khác theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại đoạn 2 khoản 5 Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì: “Trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá không thực hiện đầy đủ hoặc không đúng hạn nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng thì tiền thanh toán mua tài sản đấu giá được xử lý theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá và quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán tài sản”. Quy định về việc xử lý số tiền trên theo thỏa thuận trong hợp đồng sẽ gây khó khăn và không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan THADS. Các quy định này chưa cụ thể về phạm vi đối tượng được sử dụng số tiền này là của bản án, quyết định đó hay có thể thanh toán cho các bản án quyết định khác của đơn vị đó hoặc có thể dùng để bảo đảm các khoản chi trên cho toàn hệ thống thi hành án.
Do đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá không thực hiện đầy đủ hoặc không đúng hạn nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng thì tiền thanh toán mua tài sản đấu giá được xử lý theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá và quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán tài sản. Số tiền đặt trước trong trường hợp này được chuyển thành tiền đặt cọc và thuộc về người có tài sản bán đấu giá. Số tiền sày sau khi trừ chi phí đấu giá tài sản, khoản tiền đặt trước thuộc về ngân sách nhà nước và được bổ sung vào nguồn kinh phí đảm bảo hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự nơi tổ chức thi hành án.
- Bổ sung quy định về cấp trang phục THADS phù hợp với thời tiết, khí hậu vùng miền
Hiện nay, nhiều địa phương phản ánh về việc cấp trang phục thi hành án dân sự đang quy định theo niên hạn nhưng chưa phù hợp theo vùng miền.
Ví dụ: khu vực Miền Nam điều kiện thời tiết nắng nóng nhu cầu sử dụng trang phục xuân hè nhiều hơn trang phục thu đông. Do đó, việc cấp phát trang phục thu đông gây lãng phí trong khi nhu cầu sử dụng trang phục xuân hè cao.
Do đó, bổ sung thêm quy định tại Điều 83 Nghị định quy định Bộ Tư pháp có trách nhiệm quy định cụ thể giữa trang phục xuân hè và thu đông để phù hợp nhu cầu sử dụng của các đơn vị và tình hình thực tế vùng miền, khí hậu nhằm phù hợp với nhu cầu và điều kiện thời tiết.
- Nghiên cứu đề xuất quy định bãi bỏ điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP: Điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện khoản 1 Điều 74 Luật THADS quy định Chấp hành viên tiến hành tự phân chia tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình; nếu vợ chồng hoặc các thành viên trong hộ gia đình không đồng ý với việc phân chia của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa phân chia tài sản chung; hết thời hạn mà họ không khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo sự phân chia của Chấp hành viên.
Quy định tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP gây khó khăn cho Chấp hành viên trong quá trình thực hiện bởi vì Chấp hành viên không có cơ sở để xác định được các tiêu chí thực hiện việc phân chia tài sản chung vợ chồng, hộ gia đình. Khi Chấp hành viên thực hiện khởi kiện yêu cầu Toà án thực hiện phân chia theo quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 74 Luật THADS thì Toà án nhân dân các cấp không thụ lý yêu cầu vì cho rằng Chấp hành viên chưa thực hiện hết quyền theo quy định này nên không có cơ sở để thụ lý yêu cầu của Chấp hành viên. Thực tế hiện nay, tài sản thi hành án thuộc trường hợp tài sản chung vợ chồng, hộ gia đình khá phổ biến, đương sự không hợp tác dẫn đến việc thi hành án có điều kiện thi hành nhưng cơ quan THADS không xử lý được tài sản, đây cũng là một trong nhưng nguyên nhân dẫn đến án tồn đọng, khiếu nại tố cáo kéo dài. Đối với các vụ án kinh tế tham nhũng việc Chấp hành viên phân chia có thể dẫn đến thất thoát tài sản của Nhà nước nếu không có căn cứ để tính công sức đóng góp vào tài sản. Do đó, đề xuất bãi bỏ điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.
Theo (CỔNGTHÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỔNG CỤC THADS)