Sign In

Những điểm mới cơ bản của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008

22/07/2015

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự ra đời, tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển biến cơ bản, bền vững, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự, theo đó bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
1. Về quyền, nghĩa vụ của đương sự trong thi hành án dân sự (Điều 7, 7a, 7b, 36, 45)
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 không có điều luật nào quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án mà quyền và nghĩa vụ của họ được quy định rải rác ở các điều luật. Để tạo cơ sở pháp lý tốt hơn bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp năm 2013, Luật sửa đổi, bổ sung đã quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của đương sự trong thi hành án dân sự, cụ thể như sau:
a) Về quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án:
- Mở rộng, tạo điều kiện cho người được thi hành án không chỉ có quyền yêu cầu thi hành án, đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định, áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà còn có quyền được thông báo về thi hành án; yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ trong bản án, quyết định của mình.
- Một quyền rất mới mà Luật bổ sung cho đương sự, đó là quyền được yêu cầu thay đổi Chấp hành viên trong trường hợp có căn cứ cho rằng Chấp hành viên không vô tư khi làm nhiệm vụ. Quy định này phù hợp với quy định hiện hành về thay đổi người tiến hành tố tụng trong các thủ tục tố tụng, đảm bảo sự khách quan trong tổ chức thi hành án dân sự; nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của Chấp hành viên trong việc tổ chức thi hành án. Tuy nhiên, để tránh các đương sự lợi dụng quyền được thay đổi Chấp hành viên để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án hoặc kéo dài thời gian tổ chức thi hành án, Quốc hội giao cho Chính phủ quy định những trường hợp được thay đổi chấp hành viên.
- Đặc biệt, Luật sửa đổi, bổ sung đã sửa đổi một cách căn bản quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án liên quan đến việc xác minh điều kiện thi hành án. Theo Điều 44 Luật thi hành án dân sự 2008 thì người được thi hành án có nghĩa vụ tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; nếu muốn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tiến hành xác minh thì phải chứng minh là đã tiến hành xác minh không có kết quả và phải chịu chi phí xác minh. Quy định trên trong thực tiễn thực hiện cho thấy chưa phù hợp ở giai đoạn hiện tại của điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước, do cơ chế quản lý, công khai tài sản chưa được hoàn thiện, minh bạch, sự hỗ trợ của cơ quan, tổ chức, cá nhân để người được thi hành án thực hiện nghĩa vụ này còn chưa hiệu quả. Vì vậy, nghĩa vụ này trở thành gánh nặng cho người được thi hành án. Để tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người được thi hành án, trên cơ sở khôi phục quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993 và Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004, Luật sửa đổi, bổ sung bỏ nghĩa vụ của người được thi hành án trong việc phải chứng minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, phải chứng minh đã tiến hành xác minh mới có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tiến hành xác minh và bỏ nghĩa vụ nộp chi phí xác minh. Luật sửa đổi, bổ sung quy định chuyển hóa từ nghĩa vụ thành quyền của người được thi hành án trong việc cho phép họ được tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh, cung cấp cho cơ quan thi hành án thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; không phải chịu chi phí xác minh do Chấp hành viên thực hiện.
- Để khuyến khích người được thi hành án thi hành án tích cực, chủ động trong việc cung cấp thông tin, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án nhà nước sẽ miễn, giảm phí thi hành án. Khi người được thi hành án cung cấp thông tin điều kiện về tài sản của người phải thi hành án mà cơ quan thi hành án có thể thể tiến hành xử lý tài sản đó để đảm bảo việc thi hành án cho người được thi hành án thì họ sẽ được miễn, giảm phí thi hành án tương ứng với số tiền hoặc tài sản thu được từ thông tin mà họ cung cấp cho cơ quan thi hành án.
- Mặt khác, một trong những bức xúc của người được thi hành án đó là tình trạng người phải thi hành án tìm mọi cách để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án, như: không nhận tài sản là của mình, đồng ý tài sản là của người khác, không khởi kiện yêu cầu phân chia tài sản chung. Do đó, Luật đã quy định bổ sung quyền của người được thi hành án trong việc yêu cầu Tòa án xác định, phân chia quyền sở hữu, sử dụng tài sản; yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ, đính chính lỗi chính tả hoặc số liệu sai sót; khởi kiện dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có tranh chấp của đương sự về tài sản liên quan đến thi hành án. Đây là quyền quan trọng để tạo cơ hội cho người được thi hành án bảo vệ kịp thời và đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp mà bản án, quyết định đã ghi nhận.
b)  Về quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án (Điều7a)
- Luật đã sửa đổi theo hướng rút ngắn thời hạn tự nguyện thi hành án từ 15 ngày theo quy định tại Điều 45 Luật thi hành án dân sự năm 2008 xuống còn 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Quy định này nhằm hạn chế việc kéo dài thời hạn thi hành án, đồng thời phù hợp với thời hạn Chấp hành viên phải tiến hành xác minh điều kiện thi hành án.
- Luật mới đã bổ sung điểm quan trọng là quy định người phải thi hành án có nghĩa vụ kê khai trung thực tài sản, điều kiện thi hành án; cung cấp đầy đủ tài liệu, giấy tờ có liên quan đến tài sản của mình khi có yêu cầu của người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai đó. Đây là quy định mới, vừa khuyến khích sự tự nguyện thi hành án, nâng cao ý thức chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, ràng buộc trách nhiệm của người phải thi hành án đối với nghĩa vụ thi hành án, vừa giảm tải trách nhiệm của Chấp hành viên, chi phí của nhà nước, đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người được thi hành án.
2. Về việc chủ động ra quyết định thi hành án hoặc theo yêu cầu (Điều 28, 31, 32, 33, 34,35, 36)
a) Về thẩm quyền ra quyết định thi hành án, để phù hợp với hệ thống tổ chức cơ quan Tòa án trong giai đoạn mới, cụm từ “Tòa án cấp huyện” được thay bằng cụm từ “Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương”. Luật đã bổ sung thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện thi hành quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao; thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh thi hành các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp cao; phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại; thẩm quyền của cơ quan thi hành án cấp quân khu thi hành quyết định dân sự của Toà án nhân dân tối cao chuyển giao cho cơ quan thi hành án cấp quân khu. Luật cũng bổ sung  “phán quyết của Trọng tài thương mại” được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự.
b) Về việc thi hành án theo yêu cầu của đương sự, Luật đã gộp các nội dung của 03 điều (Điều 32,33,34) của Luật thi hành án dân sự năm 2008 thành 01 điều (Điều 31), đồng thời bãi bỏ 03 điều trên, để thiết kết điều luật một cách khoa học, chặt chẽ.
Luật đã thay đổi quy định “đơn yêu cầu thi hành án” bằng thuật ngữ có nghĩa chung hơn là “yêu cầu thi hành án” để thể hiện việc yêu cầu thi hành án không chỉ bằng đơn mà còn bằng hình thức khác và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế không bắt buộc chỉ bằng hình thức đơn yêu cầu thi hành án. Đặc biệt, điểm mới là không bắt buộc yêu cầu thi hành án phải có thông tin về điều kiện thi hành án; khi người yêu cầu trực tiếp trình bày bằng lời nói thì cơ quan thi hành án dân sự phải lập biên bản các nội dung cụ thể; biên bản này có giá trị như đơn yêu cầu; khi tiếp nhận yêu cầu thi hành án, thì phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu thay cho việc cấp giấy xác nhận đã nhận đơn như trước đây.
c) Về chủ động ra quyết định thi hành án, Luật đã bổ sung một số loại việc vào diện chủ động thi hành án để bảo đảm lợi ích Nhà nước, gồm khoản thu lệ phí Tòa án; các khoản thu khác cho Nhà nước (ngoài khoản tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản như Luật thi hành án dân sự năm 2008 đã quy định); quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.
d) Về việc gửi quyết định về thi hành án, khắc phục việc trước đây tại Điều 38 Luật không quy định thời hạn, nay Luật quy định rõ trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định, các quyết định về thi hành án phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.
Luật cũng quy định rõ “mỗi quyết định thi hành án là một việc thi hành án.”
3. Về xác minh điều kiện thi hành án, xác định việc chưa có điều kiện thi hành (Điều 44, 44a)
a) Về xác minh điều kiện thi hành án (Điều 44):
- Luật bỏ nghĩa vụ của người được thi hành án trong việc phải xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, chuyển hóa thành quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện thi hành án, cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án cho cơ quan thi hành án; bỏ nghĩa vụ phải nộp chi phí xác minh. Việc xác minh điều kiện thi hành án hiện nay là thuộc về trách nhiệm của Chấp hành viên, chi phí xác minh do Ngân sách Nhà nước chịu.
- Thời hạn Chấp hành viên phải tiến hành xác minh là trong 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến hành xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải tiến hành xác minh ngay.
- Để hỗ trợ cho Chấp hành viên trong việc xác định điều kiện thi hành án, Luật đã bổ sung quy định mới, yêu cầu “Người phải thi hành án phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình”. Đây là quy định mới nhằm ràng buộc trách nhiệm của người phải thi hành án đối với hoạt động thi hành án và có khả năng giảm bớt việc tẩu tán tài sản trong thi hành án. Ngoài ra, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự bỏ cơ chế trả đơn yêu cầu thi hành án mà trong trường hợp khi kết quả xác minh người phải thi hành án không có tài sản điều kiện để đảm bảo việc thi hành án Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án. Để đảm bảo quyền lợi của người được thi hành án theo quyết định của Tòa án và tránh tình trạng việc Chấp hành viên chưa làm hết trách nhiệm của mình khi tiến hành xác minh thì trong trường hợp cơ quan thi hành án đã ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án nhưng người được thi hành án cung cấp thông tin điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì Chấp hành viên phải tiến hành xác minh lại nội dung mà đương sự đã cung cấp để có căn cứ tổ chức thi hành án.
Luật cũng đưa ra cơ chế trường hợp Chấp hành viên thấy cần thiết hoặc kết quả xác minh của Chấp hành viên và người được thi hành án khác nhau hoặc có kháng nghị của Viện kiểm sát thì Chấp hành viên phải tiến hành xác minh lại. Việc xác minh lại được tiến hành trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kết quả xác minh do đương sự cung cấp hoặc nhận được kháng nghị của Viện kiểm sát.
- Luật đã bổ sung quy định yêu cầu Chấp hành viên khi trực tiếp xác minh điều kiện thi hành án thì phải xuất trình thẻ Chấp hành viên hoặc giấy tờ chứng minh là người có thẩm quyền xác minh điều kiện thi hành án; lập biên bản thể hiện đầy đủ kết quả xác minh có xác nhận của Ủy ban nhân dân hoặc công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi tiến hành xác minh thay cho phải có đủ cả 03 chữ ký như trước đây.v.v. Quy đinh mới này nhằm khắc phục tình trạng lỏng lẻo của công tác xác minh hiện nay, đảm bảo hiệu quả công tác phối hợp trong thi hành án dân sự.
- Luật khẳng định rõ vai trò của các công chức Tư pháp - Hộ tịch, địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường, cán bộ,cán bộ công chức cấp xã khác nói riêng và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khác nói chung trong việc thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin cho Chấp hành viên và phải chịu trách nhiệm về các nội dung thông tin đã cung cấp; quy định rõ thời hạn phải thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên, cụ thể: Bảo hiểm xã hội, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; ký vào biên bản trong trường hợp Chấp hành viên xác minh trực tiếp hoặc trả lời bằng văn bản trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của Chấp hành viên, đối với thông tin về tài khoản thì phải cung cấp ngay; Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin khi người được thi hành án hoặc người đại diện theo ủy quyền của người được thi hành án có yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, trừ trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân từ chối cung cấp thì phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do. Trường hợp người được thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân không cung cấp hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường.
b) Về việc xác định việc chưa có điều kiện thi hành án (Điều 44a): Đây là quy định hoàn toàn mới so với Luật năm 2008. Với Điều 44a được bổ sung mới, Luật quy định trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự căn cứ vào kết quả xác minh điều kiện thi hành án phải ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án khi thuộc một trong 03 trường hợp:
- Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc có thu nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án, người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng và không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản theo quy định của pháp luật không được kê biên, xử lý để thi hành án;
- Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được; phải trả giấy tờ nhưng giấy tờ không thể thu hồi và cũng không thể cấp lại được mà đương sự không có thỏa thuận khác;
- Chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án, người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng.
Luật sửa đổi, bổ sung quy định thông tin về tên, địa chỉ, nghĩa vụ phải thi hành của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành được đăng tải trên trang thông tin điện tử về thi hành án dân sự và gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xác minh để niêm yết. Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành thì cơ quan thi hành án phải tổ chức thi hành. Quy định mới này nhằm nhắc nhở người phải thi hành án cân nhắc, lựa chọn biện pháp tự nguyện thi hành án, hạn chế các trường hợp không chấp hành án, góp phần giảm tải chi phí, thời gian, trách nhiệm của Chấp hành viên và người được thi hành án trong tiến trình tổ chức thi hành án; nâng cao ý thức, trách nhiệm của người phải thi hành án đối với việc chấp hành pháp luật để tiếp tục giữ uy tín.
4. Về hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ, kết thúc thi hành án và chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án  (Điều 48,49,50,51,52 và Điều 54)  
a) Về hoãn thi hành án, Luật đã sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 48, theo đó: đã giảm bớt 01 trường hợp hoãn thi hành án, đó là trường hợp người phải thi hành các khoản nộp ngân sách không có tài sản hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản đó không đủ chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc có tài sản nhưng tài sản thuộc loại không được kê biên, do đã đưa vào trường hợp xác định việc chưa có điều kiện thi hành án. Bên cạnh đó, Luật đã bổ sung 05 trường hợp hoãn thi hành án là: (i) Người phải thi hành án bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án; (ii) Tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo quy định tại Điều 74 và Điều 75 của Luật thi hành án dân sự hoặc khi tài sản được kê biên theo Điều 90 của Luật thi hành án dân sự nhưng sau khi giảm giá theo quy định mà giá trị bằng hoặc thấp hơn chi phí và nghĩa vụ được bảo đảm; (iii) Người được nhận tài sản, người được giao nuôi dưỡng đã được thông báo hợp lệ  02 lần về việc nhận tài sản, nhận người được nuôi dưỡng nhưng không đến nhận; (iiii) Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định tại Điều 54 của Luật thi hành án dân sự chưa thực hiện được vì trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng; (iiiii) Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 104 của Luật thi hành án dân sự.
Đồng thời, nhằm tránh sự lợi dụng hoãn thi hành án do chạy chỉ tiêu thi hành án trong thực tiễn, Luật làm rõ hơn trường hợp hoãn theo thỏa thuận của các bên. Theo đó, việc thi hành án dân sự sẽ hoãn khi đương sự đồng ý hoãn thi hành án; việc đồng ý hoãn thi hành án phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của đương sự; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác.

b) Về đình chỉ thi hành án: Có 08 trường hợp được đình chỉ thi hành án là:

- Người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế;
- Người được thi hành án chết mà theo quy định của pháp luật quyền và lợi ích của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế hoặc không có người thừa kế;
-  Đương sự có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ quyền, lợi ích được hưởng theo bản án, quyết định, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba;
- Bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 103 của Luật này;
- Người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể, không còn tài sản mà theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác;
- Có quyết định miễn nghĩa vụ thi hành án;
- Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án;
- Người chưa thành niên được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đã chết hoặc đã thành niên.”
So với Luật năm 2008, quy định này có các điểm mới sau:
Trước hết là làm rõ quy định về đình chỉ thi hành án theo ý chí của đương sự: Theo Luật năm 2008, trường hợp đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự “không tiếp tục việc thi hành án”, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Theo Luật sửa đổi, “đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ quyền, lợi ích được hưởng theo bản án, quyết định, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba”. Việc sửa đổi này nhắm khắc phục tình trạng người phải thi hành án lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người được thi hành án đã đạt được thỏa thuận không tiếp tục việc thi hành án, dẫn đến việc cơ quan thi hành án dân sự phải đình chỉ thi hành án theo quy định. Tiếp theo, người phải thi hành án đã không giữ đúng cam kết khi thỏa thuận với người được thi hành án, người được thi hành án yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục thi hành án nhưng việc thi hành án đã bị đình chỉ.
Luật đã sửa đổi căn cứ đình chỉ thi hành án khi bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ quy định tại điểm d khoản 1 Điều 50 của Luật 2008. Theo đó, bổ sung quy định không đình chỉ thi hành án trong trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu giá nhưng bản án, quyết định bị kháng nghị, sửa đổi hoặc bị hủy thì cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục giao tài sản, kể cả thực hiện việc cưỡng chế thi hành án để giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp kết quả bán đấu giá bị hủy theo quy định của pháp luật hoặc đương sự có thỏa thuận . Quy định trên là phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba ngay tình, phù hợp với thực tiễn, tránh việc khiếu nại, tố cáo và bảo vệ Chấp hành viên.
Luật đã sửa đổi điểm e khoản 1 Điều 50 theo hướng bỏ quy định đình chỉ thi hành án trong trường hợp có quyết định “giảm một phần nghĩa vụ thi hành án”. Vì vậy, theo khoản này thì chỉ đình chỉ thi hành án khi “có quyết định miễn nghĩa vụ thi hành án”.
Luật đồng thời bổ sung căn cứ đình chỉ thi hành án trong trường hợp “người chưa thành niên được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đã chết hoặc đã thành niên”. Đây là vấn đề phát sinh trong thực tiễn, nhưng do Luật năm 2008 và văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định nên cơ quan thi hành án dân sự không có căn cứ pháp lý để giải quyết. Quy định này là phù hợp vì đối tượng thi hành án không còn tồn tại và nghĩa vụ này không thay thế được nên cần đình chỉ thi hành án.
c) Về kết thúc thi hành án, xác định khi cơ quan thi hành án đã tiếp nhận yêu cầu thi hành án của đương sự thì phải có trách nhiệm đến cùng với quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, do đó Luật đã bỏ cơ chế trả đơn yêu cầu thi hành án quy định tại Điều 51 Luật thi hành án dân sự 2008. Do bỏ cơ chế trả đơn yêu cầu thi hành án nên Luật cũng bỏ trường hợp đương nhiên kết thúc thi hành án khi đã có quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án.
Do đó, việc thi hành án đương nhiên kết thúc chỉ còn trong 02 trường hợp, gồm: (i) Đương sự đã thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của mình và (ii) Đã có quyết định đình chỉ thi hành án.
Riêng đối với việc tạm đình chỉ, đình chỉ và khôi phục thi hành án đối với người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản, Luật đã sửa đổi khoản 2 Điều 137, đồng thời bỏ Điều 138, 139 cho phù hợp với Luật phá sản năm 2014. Theo đó, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ việc thi hành án về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án lâm vào tình trạng phá sản ngay sau khi nhận được quyết định của Tòa án về việc mở thủ tục phá sản. Việc tiếp tục thi hành nghĩa vụ về tài sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là người phải thi hành án trong trường hợp này thực hiện theo quy định của Luật Phá sản. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm chỉ đạo Chấp hành viên bàn giao cho Tòa án các tài liệu thi hành án có liên quan đến việc tiếp tục thi hành nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản.

d) Về chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án (điểm d và điểm e khoản 1 Điều 54): Luật đã sửa đổi theo hướng rõ hơn việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định của Luật doanh nghiệp đối với trường hợp cổ phần hóa, giải thế, giải thể do bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Riêng đối với việc tạm đình chỉ, đình chỉ và khôi phục thi hành án đối với người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản, Luật đã sửa đổi khoản 2 Điều 137, đồng thời bỏ Điều 138, 139 cho phù hợp với Luật phá sản năm 2014.

5. Về miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 61)
Theo Luật năm 2008, phạm vi các khoản miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật hiện hành chỉ gồm các khoản thu nộp ngân sách nhà nước, gồm:
- Tiền phạt thuộc diện được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án bao gồm cả tiền phạt là hình phạt chính và hình phạt bổ sung;
- Án phí thuộc diện được miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án bao gồm cả án phí hình sự, án phí dân sự (án phí dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động) và án phí hành chính;
- Tiền tịch thu sung công;
- Thu hồi, hoàn trả tài sản cho Nhà nước;
- Các khoản khác thu nộp vào ngân sách nhà nước.
Đây là nội dung khá quan trọng trong quy trình thi hành án nhằm giải quyết những trường hợp người phải thi hành án phải thi hành các khoản cho ngân sách nhưng không có điều kiện thi hành. Quy định này không được lỏng lẻo để tránh việc lợi dụng làm thất thoát ngân sách nhà nước và giảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 61 Luật Thi hành án dân sự thì để được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án điều kiện đầu tiên là người phải thi hành án không có tài sản để thi hành các khoản thu nộp ngân sách nhà nước hoặc đã thi hành được một phần khoản thu nộp ngân sách nhà nước mà không có tài sản để tiếp tục thi hành án. Tuy nhiên Luật năm 2008 chưa có hướng dẫn cụ thể về những trường hợp được coi là không có tài sản để thi hành án.
Để khắc phục bất cập trên, Luật sửa đổi, bổ sung đã làm rõ hơn thế nào là không có điều kiện thi hành án; quy định rõ hơn về căn cứ để xác định thời hạn xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án. Đồng thời, bổ sung vào khoản 4 điều kiện xét miễn thi hành phần nghĩa vụ còn lại mà Luật thi hành án dân sự năm 2008 đã bỏ sót. Cụ thể:
Trước hết, Luật đã sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định điều kiện chung mà người phải thi hành án có thể được xét miễn nghĩa vụ thi hành án khi có đủ các điều kiện sau đây:  (1) điều kiện về tài sản, phải là “Không có tài sản hoặc có tài sản nhưng tài sản đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án hoặc không có thu nhập hoặc mức thu nhập thấp, chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án và gia đình họ; (2) Điều kiện về thời gian: phải là “Hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án khoản thu nộp ngân sách nhà nước có giá trị dưới 2.000.000 đồng hoặc hết thời hạn 10 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 5.000.000 đồng.
Tiếp theo, quy định về việc miễn thi hành án, Luật quy định người phải thi hành án đã thi hành được một phần khoản thu nộp ngân sách nhà nước có thể được xét miễn thi hành phần nghĩa vụ còn lại khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Điều kiện về tài sản, như đã nêu ở trên, được quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.
- Điều kiện về thời gian, đó làHết thời hạn 05 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị dưới 5.000.000 đồng hoặc hết thời hạn 10 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 10.000.000 đồng”.
Để phù hợp với chính sách hình sự, đối với những người phải thi hành án đã tích cực thi hành được một phần án phí, tiền phạt nhưng lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục thi hành được phần nghĩa vụ còn lại hoặc lập công lớn thì Luật quy định họ có thể được miễn thi hành phần nghĩa vụ còn lại.
Đối với người phải thi hành án là người bị kết án thuộc trường hợp quy định tại điểm c mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 của Quốc hội và điểm đ khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 33/2009/QH12 của Quốc hội thì được miễn nghĩa vụ thi hành án phí trong bản án hình sự mà người đó phải chấp hành.
Về giảm thi hành án, Luật quy định người phải thi hành án đã thi hành được một phần khoản thu nộp ngân sách nhà nước thì có thể được xét giảm một phần nghĩa vụ thi hành án khi có đủ các điều kiện, cụ thể là:
- Điều kiện về tài sản như đã nêu ở trên, được quy định tại điểm a khoản 1 Điều này.
- Điều kiện về thời gian, đó là “ Hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, mỗi lần giảm không quá một phần tư số tiền còn lại phải thi hành án” hoặc đã “Hết thời hạn 10 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị từ trên 100.000.000 đồng, mỗi lần giảm không quá một phần năm số tiền còn lại phải thi hành án nhưng tối đa không quá 50.000.000 đồng/lần”.
Việc xét miễn, giảm nói trên phải tránh việc lợi dụng, chính vì thế Luật quy định người phải thi hành án chỉ được xét miễn hoặc giảm một lần trong 01 năm đối với mỗi bản án, quyết định. Quyết định thi hành án lần đầu là căn cứ để xác định thời hạn xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án.
6. Về biện pháp bảo đảm thi hành án (Điều 67,68,69)
Theo quy định tại khoản 1 Điều 66 của Luật Thi hành án dân sự thì Chấp hành viên có thể áp dụng linh hoạt các biện pháp bảo đảm thi hành án nếu xét thấy cần thiết để ngăn chặn việc tẩu tán, huỷ hoại, trốn tránh việc thi hành án. Trên thực tế, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án phụ thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên môn, khả năng đánh giá, nhận định tình huống của Chấp hành viên. Chấp hành viên cần cân nhắc kỹ càng trước khi ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án để vừa đảm bảo mục đích ngăn chặn, phòng ngừa đồng thời vừa không gây thiệt hại không đáng có cho người bị áp dụng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện thấy các quy định tại Luật Thi hành án dân sự còn quy định chưa đầy đủ về các quyền, nghĩa vụ của đương sự, thủ tục áp dụng biện pháp bảo đảm đã gây khó khăn cho cơ quan Thi hành án trong quá trình thực hiện.
Khắc phục tình trạng trên, Luật sửa đổi, bổ sung đã sửa đổi, bổ sung 06 điều liên quan đến biện pháp bảo đảm thi hành án, cụ thể là các điều liên quan đến quyền, nghĩa vụ của đương sự  liên quan đến biện pháp bảo đảm thi hành án (điểm a khoản 1 Điều 7, điểm a khoản 1 Điều 7b, khoản 3 Điều 31) và các điều về thủ tục áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án (Điều 67, Điều 68, Điều 69.
Về biện pháp phong tỏa tài khoản
Phong toả tài khoản là biện pháp nghiệp vụ làm cho mọi hoạt động “tiền ra” từ một tài khoản nhất định bị hạn chế và kiểm soát. Như vậy, việc phong toả tài khoản sẽ ảnh hưởng đến các giao dịch đầu ra của chủ tài khoản thông qua tài khoản đó. Luật 2008 quy định phong toả tài khoản là một biện pháp bảo đảm thi hành án. Chấp hành viên áp dụng phong tỏa tài khoản đối với người phải thi hành án có tiền, tài sản gửi tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước nhằm ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản của người phải thi hành án. Đây là quyền hoàn toàn chủ động của các Chấp hành viên trong việc phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình (trừ trường hợp đương sự yêu cầu) với một mục đích duy nhất là nhằm kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán tiền (dưới mọi hình thức) trong tài khoản của người phải thi hành án. Về thủ tục, quyết định này được giao ngay cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải thi hành án để thi hành và không phải thông báo trước cho đương sự. Theo đó, sẽ hạn chế được việc người phải thi hành án tẩu tán số tiền đang có trong tài khoản. Có thể nói những quy định về biện pháp bảo đảm phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án được quy định trong Luật 2008 rất tiến bộ, phù hợp với thực tiễn công tác thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện phát sinh có nhiều trường hợp người phải thi hành án có tài sản không phải là tiền (như: kim khí quý, đã quý v.v...) đang gửi tại ngân hàng, các tổ chức tín dụng, người thứ ba khác… nhưng Luật Thi hành án dân sự năm 2008 không quy định Chấp hành viên được áp dụng biện pháp bảo đảm phong tỏa đối với tài sản này. Mặt khác, đây cũng là biện pháp cần thiết mà Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định bên cạnh quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời “phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước”. Do đó, Luật đã bổ sung biện pháp bảo đảm thi hành án“phong toả tài sản ở nơi gửi giữ” vào Điều 67, cách thức thực hiện tương tự biện pháp phong tỏa tài khoản, nhằm tạo điều kiện tốt hơn để bảo vệ quyền lợi của người được thi hành án.
Từ đó, tại khoản 2 Điều 67 có 03 nội dung sửa đổi, bổ sung, bao gồm:
-“Quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ phải xác định rõ số tiền, tài sản bị phong tỏa”. Quy định này nhằm giới hạn số tiền, tài sản bị phong tỏa nhằm tránh tình trạng tùy tiện phong toả toàn bộ tài khoản, tài sản làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, giao dịch bình thường của chủ tài khoản, tài sản. Quy định này luật hóa khoản 1 Điều 11 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 hiện hành của Chính phủ.

- Cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của người phải thi hành án” được nhận và phải thực hiện quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án của Chấp hành viên. Theo đó, Chấp hành viên phải giao quyết định phong toả cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của người phải thi hành án.

- Về thủ tục phải lập biên bản và thực hiện lập biên bản trước khi ra quyết định áp dụng phong toả tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ:  “Trường hợp cần phong tỏa ngay tài khoản, tài sản của người phải thi hành án ở nơi gửi giữ mà chưa ban hành quyết định phong tỏa thì Chấp hành viên lập biên bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của người phải thi hành án phong tỏa tài khoản, tài sản đó. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản, Chấp hành viên phải ra quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản phải thực hiện ngay yêu cầu của Chấp hành viên về phong toả tài khoản, tài sản. Biên bản, quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản trong trường hợp này phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.”

Tại Khoản 3 Điều 67 đã sửa đổi theo hướng nâng thời hạn Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc ra quyết định chấm dứt việc phong tỏa theo quy định của Luật thi hành án dân sự 2008 từ  05 ngày làm việc lên thành 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định phong toả tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ. Việc nâng thời hạn này cũng phù hợp với thời hạn tự nguyện thi hành án được sửa đổi từ 15 ngày xuống còn 10 ngày, kể từ ngày đương sự nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án, đồng thời phù hợp với thực tiễn, tránh tình trạng phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án khi chưa hết thời gian 10 ngày tự nguyện thi hành án.
Về biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự,
Theo quy định tại khoản 1 Điều 68 Luật Thi hành án dân sự thì Chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng. Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự không chỉ là người phải thi hành án mà cả người được thi hành án nếu họ đang quản lý, sử dụng những tài sản, giấy tờ phục vụ cho quá trình thi hành án. Các tài sản, giấy tờ bị tạm giữ là các tài sản, giấy tờ có liên quan đến việc thi hành án như: giấy đăng ký xe mô tô, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… hoặc các tài sản có thể xử lý được để thi hành án.
Đến nay, Luật sửa đổi, bổ sung đã bổ sung quy định tại Điều 68 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 gồm 03 khoản thành 5 khoản. Về nội dung, có 06 vấn đề được sửa đổi, bổ sung như sau:
- Làm rõ hơn thẩm quyền của Chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ tài sản, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án mà đương sự, tổ chức, cá nhân khác đang quản lý, sử dụng. Đồng thời, quy định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và bổ sung trách nhiệm của cá nhân trong việc thực hiện quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ; theo đó cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên  trong việc tạm giữ tài sản, giấy tờ.
 - Bổ sung rõ hơn việc áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ phải bằng hình thức quyết định; mặt khác bổ sung quy định quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ phải xác định rõ loại tài sản, giấy tờ bị tạm giữ. Quy định này nhằm khắc phục tình trạng không rõ ràng của Luật Thi hành án dân sự 2008 vì không quy định Chấp hành viên phải ban hành quyết định mà chỉ yêu cầu lập biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ. Việc khẳng định hình thức áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án bằng quyết định tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn cho Chấp hành viên thực hiện nhiệm vụ này.
- Bổ sung cách thức thực hiện tạm giữ tài sản, giấy tờ trong trường hợp chưa ban hành quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ. Theo đó, Trường hợp cần tạm giữ ngay tài sản, giấy tờ mà chưa ban hành quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ thì Chấp hành viên yêu cầu giao tài sản, giấy tờ và lập biên bản về việc tạm giữ. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi lập biên bản, Chấp hành viên phải ban hành quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ. Biên bản, quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
- Quy định rõ hơn cách thức thực hiện việc lập biên bản tạm giữ, tài sản, giấy tờ; thay từ “đương sự” bằng từ “người đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ”. Theo đó, khi tạm giữ tài sản, giấy tờ phải lập biên bản có chữ ký của Chấp hành viên và người đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ; trường hợp người đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ không ký thì phải có chữ ký của người làm chứng. Biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ phải được giao cho người quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ.
- Bổ sung quy định: Chấp hành viên yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh quyền sở hữu, sử dụng và thông báo cho đương sự, tổ chức, cá nhân có liên quan về quyền khởi kiện yêu cầu xác định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm giữ. Trường hợp cần thiết, Chấp hành viên phải xác minh, làm rõ hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan có thẩm quyền xác định người có quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm giữ”. Quy định này nhằm hỗ trợ , ràng buộc Chấp hành viên quyết định đúng đắn hơn tránh xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và người thứ ba.
- Thay đổi quy định về xử lý quyết định tạm giữ theo hướng thay đổi thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc chấm dứt việc tạm giữ, xuống thành 10 ngày, nhưng tính kể từ ngày có căn cứ xác định tài sản, giấy tờ tạm giữ thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án”.  Việc sửa đổi này nhằm khắc phục tồn tại của Điều 68 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, quy định trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tạm giữ tài sản, giấy tờ, Chấp hành viên phải ra một trong hai quyết định (quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án nếu xác định được tài sản, giấy tờ tạm giữ thuộc sở hữu của người phải thi hành án hoặc ra quyết định trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ cho đương sự trong trường hợp đương sự chứng minh tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án). Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp cơ quan thi hành án dân sự không đáp ứng được thời hạn trên do khi tạm giữ tài sản thì chỉ mới có một số căn cứ nhất định để xác định tài sản là của người phải thi hành án nên Chấp hành viên, người phải thi hành án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cần có thời gian để làm rõ quyền sở hữu, sử dụng tài sản, tránh tình trạng thi hành án sai đối tượng.
Về biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản: Luật 2008 đã quy định biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản là một trong ba biện pháp bảo đảm thi hành án. Chấp hành viên khi tổ chức thi hành án xét thấy cần ngăn chặn hoặc phát hiện đương sự có hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, huỷ hoại, thay đổi hiện trạng tài sản có thể ra quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án thì có quyền ra quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của người phải thi hành án.
Đến nay, Luật sửa đổi, bổ sung đã bổ sung quy định tại Điều 69 Luật Thi hành án dân sự với 03 vấn đề sau đây:
- Bổ sung căn cứ để áp dụng biện pháp bảo đảm này, đó là khi “phát hiện đương sự có hành vi trốn tránh việc thi hành án” và bổ sung nội dung ngăn chặn mà Chấp hành viên có thể ra quyết định theo hướng không chỉ đối với tài sản của người phải thi hành án mà cả tài sản chung của người phải thi hành án với người khác.
- Sửa đổi, bổ sung rõ hơn thời hạn cơ quan thi hành án phải gửi quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản, theo đó, phải gửi ngay cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản đó.
- Bổ sung quy định Chấp hành viên có trách nhiệm yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh quyền sở hữu, sử dụng; thông báo cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về quyền khởi kiện yêu cầu xác định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản. Mặt khác, để hạn chế sai phạm đáng tiếc xảy ra, xử lý những trường hợp Chấp hành viên không xác định được quyền sở hữu, sử dụng tài sản trên cơ sở các tài liệu có được, Luật sửa đổi, bổ sung quy định “trường hợp cần thiết, Chấp hành viên phải xác minh, làm rõ hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan có thẩm quyền xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi hành án giải quyết tranh chấp tài sản; yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản theo quy định của pháp luật”. Khi có căn cứ xác định tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án Chấp hành viên phải ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định tại Chương IV của Luật này; trường hợp có căn cứ xác định tài sản không thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án thì Chấp hành viên phải ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Việc sửa đổi, bổ sung này nhằm khắc phục tồn tại của Điều 69 Luật Thi hành án dân sự 2008 (quy định trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản, Chấp hành viên phải thực hiện việc kê biên tài sản hoặc chấm dứt việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản). Tuy nhiên, phần lớn trường hợp đây là tài sản có giá trị lớn, được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc mua bán, chuyển nhượng và hoàn tất thủ tục phải trải qua rất nhiều công đoạn, liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau nên cần khá nhiều thời gian để xác minh, thậm chí phải thống nhất giữa các ngành để đánh giá về tính pháp lý của việc chuyển nhượng. Do đó, quy định thời hạn 15 ngày như Luật Thi hành án dân sự năm 2008, kể từ ngày Chấp hành viên ra quyết định là quá ngắn, không khả thi, không đủ thời gian để Chấp hành viên phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan xác minh, thống nhất xác định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản, dẫn đến tình trạng thường xuyên vi phạm thời hạn. Mặt khác, với thời gian đó, nếu không đủ để xác định rõ ràng quyền sở hữu, sử dụng tài sản là thuộc về người phải thi hành án thì không thể áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án; nếu coi tài sản đã thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người thứ ba phải trả lại tài sản cho họ, thì có thể dẫn đến khiếu nại, tố cáo của người được thi hành án. Trong khi đó, Điều 69 lại không quy định Chấp hành viên, các đương sự hay người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có trách nhiệm gì, bằng cách thức nào, trong thời hạn bao lâu… làm rõ quyền sở hữu, sử dụng tài sản, làm căn cứ cho việc xử lý tài sản. Chính vì áp lực phải lựa chọn giữa việc phải tuân thủ thời hạn ban hành quyết định mà Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định, với việc phải xác định đúng tài sản của người phải thi hành án để tổ chức thi hành án buộc Chấp hành viên phải lựa chọn việc vi phạm thời hạn.
7. Về cưỡng chế thi hành án (Điểm a khoản 1 Điều 7, điểm a khoản 1 Điều 7b, khoản 1 Điều 45, Điều 72): Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự 2008 đã sửa đổi, bổ sung 16 điều liên quan đến cưỡng chế thi hành án dân sự ( Điểm a khoản 1 Điều 7, điểm a khoản 1 Điều 7b, khoản Điều 45, khoản 2 Điều 47, Điều 72, Điều 74, Điều 75, điểm b khoản 1, khoản 3 Điều 99, Điều 102, Điều 103, Điều 104, các khoản 3, 4, 5 và 6 Điều 106, điểm c khoản 1 Điều 114, Điều 116, khoản 2 Điều 173, khoản 2 Điều 174), cụ thể là:
 - Bổ sung quy định quyền của người được thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc cưỡng chế thi hành án dân sự. Theo đó, người được thi hành án có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền được thông báo, tham gia vào việc thực hiện biện pháp cưỡng chế thi hành án mà mình có liên quan.
- Cho phép áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án sớm hơn và nâng cao hơn trách nhiệm của Chấp hành viên trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. Với việc sửa đổi khoản 1 Điều 45 Luật Thi hành án dân sự theo hướng giảm thời hạn tự nguyện thi hành án từ 15 ngày xuống còn là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án, thời hạn để áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án do đó cũng được tính sớm hơn 05 ngày so với Luật Thi hành án dân sự  năm 2008. Mặt khác, với việc sửa đổi khoản 2 Điều 45 theo hướng “trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên áp dụng ngay biện pháp quy định tại Chương IV của Luật này” thay cho quy định “trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay biện pháp quy định tại Chương IV của Luật này” nhằm rõ hơn điều kiện và trách nhiệm của Chấp hành viên trong việc kịp thời áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án.
- Về kế hoạch cưỡng chế thi hành án: Chấp hành viên chỉ phải lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án trong trường hợp cần huy động lực lượng chứ không phải trong bất kỳ mọi trường hợp như trước đây; đồng thời, để rõ ràng hơn, Luật bổ sung kế hoạch cưỡng chế thi hành án phải ghi rõ tên người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế. Bên cạnh đó, bổ sung quy định rõ thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kế hoạch cưỡng chế của cơ quan thi hành án dân sự  cùng cấp, thì cơ quan Công an phải có trách nhiệm xây dựng kế hoạch và lập phương án bảo vệ cưỡng chế. Cơ quan Công an có trách nhiệm bố trí lực lượng, phương tiện cần thiết để giữ gìn trật tự, bảo vệ hiện trường, kịp thời ngăn chặn, xử lý hành vi tẩu tán tài sản, cản trở, chống đối việc thi hành án, tạm giữ người chống đối, khởi tố vụ án hình sự khi có dấu hiệu phạm tội. Quy định này nhằm khắc phục tình trạng thiếu sự phối hợp, phối hợp không hiệu quả trong cưỡng chế thi hành án thời gian qua, nhiều trường hợp việc thi hành án bị chậm trễ, đương sự bức xúc, khiếu nại tố cáo kéo dài.
- Về chi phí cưỡng chế thi hành án: người được thi hành án không phải chịu chi phí xác minh điều kiện thi hành án như trước đây, mà sẽ do ngân sách nhà nước chi trả.
8. Về việc xử lý tài sản chung và tài sản có tranh chấp (Điều 74, 75)
a) Về việc xử lý tài sản chung của người phải thi hành án với người khác để thi hành án:
- Luật đã đổi tên điều luật từ “Cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung” thành “Xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án” và đưa ra hướng xử lý và trách nhiệm rõ ràng, theo đó:
- Luật quy định rõ hơn trách nhiệm của Chấp hành viên trong trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì trước hết phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản đó biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận, thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật thi hành án dân sự  hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên có trách nhiệm thông báo cho người được thi hành án về quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết thì tiếp đến là trách nhiệm của Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Toà án. Quy định này hạn chế vai trò của Chấp hành viên trong việc xử lý tài sản của công dân, đề cao vai trò tự quyết của các bên đương sự và vai trò của Tòa án.
- Luật cũng bổ sung và quy định rõ hơn về quyền của chủ sở hữu chung được quyền ưu tiên mua phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản thuộc sở hữu chung. Trước khi bán tài sản lần đầu đối với tài sản thuộc sở hữu chung, Chấp hành viên thông báo và định thời hạn cho chủ sở hữu chung mua phần tài sản của người phải thi hành án theo giá đã định trong thời hạn ba tháng đối với bất động sản, một tháng đối với động sản; đối với những lần bán tài sản tiếp theo thì thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn ưu tiên mà chủ sở hữu chung không mua tài sản thì tài sản được bán theo quy định tại Điều 101 của Luật thi hành án dân sự. Quy định này là bổ sung mới so với Luật thi hành án dân sự 2008 và là quy định luật hóa các quy định hiện hành tại Nghị định 125/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự, nhưng khác với Nghị định 125/NĐ-CP của Chính phủ vì Nghị định chỉ ưu tiên một lần và lần đầu, nhằm đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người thứ ba, phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự, thúc đẩy tiến trình tổ chức thi hành án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.
b) Về giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản thi hành án:  
- Trước hết là đổi tên của điều luật, từ “Xử lý đối với tài sản khi cưỡng chế có tranh chấp”(Điều 75) thành “Giải quyết tranh chấp, yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án” nhằm tuyên bố rõ ràng hơn phương thức cần thiết để làm rõ việc tranh chấp đối với tài sản thi hành án.
- Luật đã quy định rõ về quyền khởi kiện và trách nhiệm của Chấp hành viên phải thông báo về quyền này của người tranh chấp: “Trường hợp tài sản của người phải thi hành án bị cưỡng chế để thi hành án mà có người khác tranh chấp thì Chấp hành viên thông báo cho đương sự, người có tranh chấp về quyền của họ được khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà đương sự, người có tranh chấp khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì việc xử lý tài sản được thực hiện theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền.Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà đương sự, người có tranh chấp không khởi kiện tại Toà án hoặc không đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì Chấp hành viên xử lý tài sản để thi hành án” theo quy định của Luật thi hành án dân sự.
Luật đã xác định và giao trách nhiệm trước hết cho người được thi hành án để tích cực, sát sao hơn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình, sau đó mới đến trách nhiệm của Chấp hành viên bằng quy định “trong  trường hợp có căn cứ xác định giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án để yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó”.
Liên quan đến quy định mới này, để hạn chế đương sự tẩu tán tài sản trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, tạo hành lang pháp lý rõ ràng về trình tự thủ tục thi hành án dân sự và tạo cơ chế phối hợp liên ngành trong quá trình xét xử thi hành án, khoản 1, Điều 6, Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã quy định cơ chế cho cơ quan thi hành án xử lý tài sản đã bị người phải thi hành án cố tình tẩu tán trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện quy định trên cũng bộc lộ một số hạn chế đó là theo quy định tại Điều 692 Bộ Luật dân sự năm 2005 thì “Việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai”. Luật Đất đai năm 2013, Điều 95 quy định: “Việc đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính”; khoản 3 Điều 188 Luật này quy định: “ Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điêm đăng ký vào sổ địa chính”. Căn cứ các quy định trên nếu người phải thi hành án chuyển nhượng tài sản của mình cho người khác thông qua hình thức phù hợp với quy định pháp luật thì tài sản đó không thuộc sở hữu của người phải thi hành án. Mặt khác, theo quy định tại Điều 71, Luật Thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án chỉ có thể kê biên, xử lý tài sản thuộc sở hữu của người phải thi hành án để đảm bảo việc thi hành án. Do đó, quy định tài sản chuyển dịch sau khi có bản án sơ thẩm mà không thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự vẫn bị kê biên đã xâm phạm, gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba ngay tình. Khi thực hiện quy định này trong thực tế cơ quan thi hành án đều hướng dẫn người thứ ba khởi kiện nhưng đa số họ đều không thực hiện việc khởi kiện với lý do giữa người mua tài sản và người bán không có tranh chấp; trường hợp người được thi hành án khởi kiện thì Tòa án không thụ lý vì đương sự không cung cấp được các tài liệu chứng minh để có căn cứ cho Tòa thụ lý như mục đích chuyển nhượng là nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Trên thực tế có trường hợp hết thời hiệu khởi kiện cơ quan thi hành án tiến hành xử lý tài sản, thực hiện việc cưỡng chế giao tài sản cho người mua trúng đấu giá hoặc người nhận tài sản để trừ vào tiền thi hành án nhưng khi họ đến làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất thì cơ quan đăng ký từ chối với lý do họ đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người thứ ba, việc cấp giấy chứng nhận không có vi phạm nên không có cơ sở để xem xét thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để cấp mới cho người mua trúng đấu giá. Điều này làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan thi hành án gây thiệt hại cho người mua trúng đấu giá. Khắc phục tình trạng này, Dự thảo Nghị định đã bỏ quy định Chấp hành viên có quyền kê biên trong trường hợp người phải thi hành án chuyển dịch hoặc thế chấp tài sản tại thời điểm sau khi có án sơ thẩm mà chỉ quy định đối với việc chuyển dịch hoặc thế chấp tài sản sau khi có án phúc thẩm Chấp hành viên mới có quyền kê biên xử lý tài sản đó; bởi vì, việc chuyển dịch và thế chấp sau khi có án phúc thẩm thì hành vi tẩu tán và trốn tránh nghĩa vụ thi hành án là rõ ràng hơn.
9. Về định giá lại, bán đấu giá tài sản (điểm b khoản 1, khoản 3 Điều 99, Điều 102, Điều 103, Điều 104, các khoản 3, 4, 5 và 6 Điều 106, điểm c khoản 1 Điều 114, Điều 116, khoản 2 Điều 173, khoản 2 Điều 174)
a) Về định giá tài sản kê biên, Luật đã sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 và bổ sung khoản 3 vào Điều 99 theo hướng việc định giá lại chỉ được thực hiện như sau: về số lần, đương sự chỉ được quyền yêu cầu định giá lại một lần; về thời điểm, đương sự chỉ có quyền yêu cầu định giá lại nếu đương sự có đơn yêu cầu định giá lại trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo về kết quả thẩm định giá và trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản. Quy định này là biện pháp nhằm hạn chế tình trạng cố tình lợi dụng quyền yêu cầu định giá lại tràn lan, cơ quan thi hành án phải tổ chức bán tài sản nhiều lần làm kéo dài thời gian thi hành án, tốn kém chi phí của nhà nước và của các đương sự; góp phần hạn chế tình trạng bức xúc khiếu nại tố cáo của người được thi hành án trong thời gian qua; đồng thời đảm bảo tốt hơn quyền lợi của các bên và hoạt động thi hành án dân sự. Luật cũng xác định rõ giá thẩm định lại là giá khởi điểm để bán đấu giá tài sản để thi hành án theo quy định.
b) Về xử lý tài sản không có người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành (Điều 104), Luật đã sửa lại tên điều, từ “Xử lý tài sản bán đấu giá không thành”, thành “Xử lý tài sản không có người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành”, nhằm xác định đúng những tình huống không có người tham gia đấu giá, trả giá có trong thực tiễn của việc tổ chức bán đấu giá.
Luật quy định rõ hơn về hướng xử lý trong trường hợp này, như quy định thời hạn và cách thức thực hiện quyền khi không có người tham gia đấu giá, trả giá, bán đấu giá tài sản thi hành án không thành, nhằm tránh tình trạng khiếu nại tố cáo của đương sự do không được thực hiện đầy đủ quyền của mình. Theo đó, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của tổ chức bán đấu giá về việc tài sản đưa ra bán đấu giá lần đầu nhưng không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì Chấp hành viên thông báo và yêu cầu đương sự thỏa thuận về mức giảm giá tài sản.Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu đương sự không thoả thuận hoặc thoả thuận không được về mức giảm giá thì Chấp hành viên quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Từ sau lần giảm giá thứ hai trở đi mà không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì người được thi hành án có quyền nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án. Trường hợp người được thi hành án đồng ý nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo về việc không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì Chấp hành viên thông báo cho người phải thi hành án biết. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được thông báo về việc người được thi hành án đồng ý nhận tài sản để thi hành án, nếu người phải thi hành án không nộp đủ số tiền thi hành án và chi phí thi hành án để lấy lại tài sản đưa ra bán đấu giá thì Chấp hành viên giao tài sản cho người được thi hành án. Đối với tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng thì Chấp hành viên ra quyết định giao tài sản cho người được thi hành án để làm thủ tục đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng tài sản đó cho người được thi hành án. Người phải thi hành án, người đang quản lý, sử dụng tài sản không tự nguyện giao tài sản cho người được thi hành án thì bị cưỡng chế thi hành án. Trong trường hợp người được thi hành án không đồng ý nhận tài sản để thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Nếu giá trị tài sản đã giảm bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án vẫn không nhận để trừ vào số tiền được thi hành án thì tài sản được giao lại cho người phải thi hành án quản lý, sử dụng. Khi được giao lại tài sản, người phải thi hành án không được đưa tài sản này tham gia các giao dịch dân sự cho đến khi họ thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án. Riêng đối với tài sản bán đấu giá để thi hành các khoản nộp ngân sách nhà nước thì được xử lý theo cơ chế nhanh chóng hơn, đó là trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo về việc tài sản đưa ra bán đấu giá nhưng không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì Chấp hành viên quyết định giảm giá để tiếp tục bán đấu giá tài sản,mỗi lần giảm giá không quá 10% giá khởi điểm của lần bán đấu giá liền kề trước đó.
c) Về hủy kết quả bán đấu giá tài sản (Điều 102), Luật đã bổ sung vào khoản 1 và xác định việc hủy kết quả bán đấu giá tài sản được thực hiện theo quy định chung của pháp luật về bán đấu giá tài sản. Trường hợp kết quả bán đấu giá tài sản bị hủy thì việc xử lý tài sản để thi hành án được thực hiện theo quy định của Luật này. Mặt khác, bên cạnh việc giữ nguyên quyền của Chấp hành viên, Luật đã thay đổi quyền của đương sự trong việc khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, hạn chế tình trạng lợi dụng để kéo dài việc thi hành án bằng quy định mới chỉ dành quyền này cho người mua được tài sản bán đấu giá, nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán đấu giá tài sản.
c) Về bảo vệ quyền của người mua tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án, Luật đã thay đổi tên Điều 103 từ “Giao tài sản bán đấu giá” thành “Bảo vệ quyền của người mua tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án” để khẳng định rõ ràng hơn nguyên tắc bảo vệ quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản của người trúng đấu giá tài sản, người nhận tài sản để thi hành án. Theo đó, Luật quy định trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá nếu đã nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu giá thì mặc dù bản án, quyết định đã thi hành bị kháng nghị, sửa đổi hoặc bị hủy thì cơ quan thi hành án dân sự vẫn tiếp tục giao tài sản, kể cả thực hiện việc cưỡng chế thi hành án để giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp kết quả bán đấu giá bị hủy theo quy định của pháp luật hoặc đương sự có thỏa thuận khác. Luật cũng quy định rõ nếu người phải thi hành án không tự nguyện giao tài sản thì sẽ bị cưỡng chế và việc cưỡng chế giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án thực hiện theo quy định chung (được quy định tại các điều 114, 115,  116 và 117 của Luật thi hành án dân sự).
d) Về đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản thông qua mua trúng đấu giá hoặc nhận tài sản để thi hành án, Luật đã quy định rõ hơn hồ sơ đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng gồm có quyết định kê biên tài sản, nếu có; văn bản bán đấu giá thành hoặc quyết định giao tài sản, biên bản giao nhận tài sản để thi hành án. Nhằm tránh xung đột với pháp luật về đất đai và pháp luật khác có liên quan, Luật đã bổ sung quy định về trường hợp tài sản là quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mà không có hoặc không thu hồi được giấy chứng nhận thì cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Chính phủ. Luật cũng quy định cụ thể hơn đối với trường hợp giấy tờ liên quan không thu hồi được thì được cấp mới để thay thế cho giấy tờ cũ và xác định giấy tờ không thu hồi sẽ không còn giá trị.
10. Về thanh toán tiền, trả tài sản thi hành án cho người được thi hành án (Điều 47): Về vấn đề này đã có 03 nội dung được sửa đổi, bổ sung, cụ thể là:
- Bổ sung khoản lệ phí Tòa án là một khoản được thanh toán và được thanh toán cùng hàng với án phí Tòa án (điểm b khoản 1 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự);
- Làm rõ hơn quy định về thứ tự thanh toán tiền thi hành án trong trường hợp bán tài sản cầm cố, thế chấp (khoản 3 Điều 47). Theo đó, khi bên nhận cầm cố, thế chấp là bên được thi hành án thì số tiền thu được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp được ưu tiên thanh toán cho bên nhận cầm cố, thế chấp; trường hợp bán tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể thì số tiền thu được cũng áp dụng nguyên tắc tương tự như trên: ưu tiên thanh toán cho bên có nghĩa vụ được bảo đảm.
Tuy nhiên, trước khi ưu tiên thanh toán theo nguyên tắc trên, Luật bổ sung khoản án phí của bản án, quyết định đã tuyên về việc xử lý tài sản đó, chi phí cưỡng chế và khoản tiền tạo lập nơi ở mới cho người phải thi hành án quy định tại khoản 5 Điều 115 của Luật Thi hành án dân sự được thanh toán trước.  Mặt khác, Luật cũng bổ sung quy định về xử lý tài sản cầm cố, thế chấp mà bên nhận cầm cố, thế chấp không phải là người được thi hành án (do Chấp hành viên áp dụng quyền kê biên tài sản đang cầm cố thế chấp quy định tại Điều 90 của Luật thi hành án dân sự 2008) thì người nhận cầm cố, thế chấp lại được ưu tiên thanh toán trước khi thanh toán các khoản án phí, chi phí cưỡng chế và khoản tiền quy định tại khoản 5 Điều 115 của Luật này.
- Bổ sung hướng xử lý trong trường hợp đương sự không đến nhận thì tiền, tài sản đó được xử lý theo quy định chung về trả lại tiền, tài sản quy định tại Điều 126 của Luật thi hành án dân sự 2008./.

Các tin đã đưa ngày: