Hướng tới Kỷ niệm 130 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2020), Chi đoàn Cục Thi hành án dân sự tỉnh có bài viết về thân thế, cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của Người qua các thời kỳ để tôn vinh những cống hiến vĩ đại của Người đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam, với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là Hoàng Thị Loan. Từ lúc sinh ra đến 5 tuổi, Nguyễn Sinh Cung sống trong sự chăm sóc đầy tình thương yêu của gia đình, đặc biệt là ông bà ngoại. Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung theo gia đình vào sống ở Huế. Đầu năm 1901, sau khi thân mẫu qua đời, Người theo cha trở về Nghệ An, rồi lấy tên là Nguyễn Tất Thành, tích cực học chữ Hán và còn theo cha đi một số nơi, học thêm nhiều điều. Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế, thời gian đầu học trường Pháp - Việt, sau học trường Quốc học Huế. Tháng 6/1909, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Bình Định, tháng 8/1910 vào Phan Thiết, Bình Thuận làm giáo viên trường Dục Thanh. Tháng 02/1911, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, ở một làng quê giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng; chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, Người đã sớm hun đúc ý chí và khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước. Ngày 5/6/1911 với tên gọi mới là Văn Ba, Người đã lên tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng đi Mác xây (Pháp). Từ năm 1912 -1917, Nguyễn Tất Thành đi qua một số nước châu Phi, châu Mỹ. Giữa năm 1913, Người đến nước Anh, tham gia nhiều hoạt động, cuối năm 1917 Người mới trở lại nước Pháp. Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, tháng 6/1919 thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi bản yêu sách gồm 08 điểm (ký tên Nguyễn Ái Quốc) tới Hội nghị các nước đế quốc họp ở Véc-xây (Pháp), đòi chính phủ các nước họp Hội nghị phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp. Tại đây Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Từ năm 1921 đến tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc tham gia nhiều hoạt động: thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, dự Đại hội lần thứ I và lần thứ II của Đảng Cộng sản Pháp, sinh hoạt trong Câu lạc bộ Phôbua, làm Chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo Người cùng khổ... Ngày 13/6/1923, Người rời nước Pháp đi Đức và đến thành phố Xanhpêtécbua (Liên Xô) ngày 30/6/1923. Từ tháng 7/1923 đến tháng 10/1924, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động trong phong trào cộng sản quốc tế, bổ sung và phát triển lý luận về cách mạng thuộc địa. Người hoạt động trong Quốc tế Nông dân; tham dự Đại hội II Quốc tế Công hội đỏ, Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên; tiếp tục viết nhiều sách báo tuyên truyền cách mạng, hoàn thành tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp; học tập tại trường Đại học phương Đông; tham gia Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là cán bộ Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản. Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, trực tiếp mở các lớp huấn luyện cán bộ, ra Báo Thanh niên (1925), tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc được tập hợp và in thành tác phẩm Đường Cách mệnh, được xuất bản vào năm 1927. Hè năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Trung Quốc đi Liên Xô, sau đó đi Đức (tháng 11/1927) rồi bí mật sang Pháp, đến nước Bỉ dự cuộc họp của Đại hội đồng liên đoàn chống đế quốc (tháng 12/1927), rồi quay lại Đức, đi Thụy Sỹ, sang Italia. Tháng 7/1928, Nguyễn Ái Quốc tới Xiêm (Thái Lan), rồi trở lại Trung Quốc vào cuối năm 1929. Từ ngày 06/1 đến ngày 07/2/1930 tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1930 đến năm 1941, tuy hoạt động ở nước ngoài nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn chỉ đạo sát sao phong trào cách mạng trong nước. Tháng 6/1931, Người bị nhà cầm quyền Anh bắt giam ở Hồng Kông. Cuối năm 1932, Người được trả tự do, sau đó đến Liên Xô học tại trường Quốc tế Lênin. Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô đến Diên An (Trung Quốc) làm việc tại Bộ chỉ huy Bát lộ quân, sau đó bắt liên lạc với tổ chức Đảng, chuẩn bị về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Ngày 28/1/1941, sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc trở về nước (tại cột mốc 108 thuộc xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng). Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tại Khuổi Nặm (Pắc Bó, Cao Bằng). Hội nghị đã xác định đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc, chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh, sáng lập Báo Việt Nam Độc lập, tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Tháng 8/1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược sang Trung Quốc bắt liên lạc với Đồng minh, cùng phối hợp hành động chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Trong thời gian bị giam giữ, Người viết cuốn Nhật ký trong tù. Tháng 9/1943, Người được thả tự do. Tháng 9/1944, Hồ Chí Minh trở về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12/1944, Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Tại đây theo đề nghị của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân đã họp quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân đã bầu ra Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Những năm 1945 - 1946, Người cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, đối phó với thù trong, giặc ngoài, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”; tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I (1946) đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 02/03/1946, Chính phủ Liên hiệp kháng chiến được thành lập do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 03/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội giao nhiệm vụ thành lập Chính phủ mới do Người làm Chủ tịch nước kiêm Thủ tướng Chính phủ (từ tháng 11/1946 - đến tháng 9/1955) và kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, đưa miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định
Giơ-ne-vơ được ký kết.Quân Pháp rút về nước, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Theo Hiệp định
Giơ-ne-vơ, sau 2 năm sẽ tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam. Nhưng đế quốc Mỹ với ý đồ xâm lược Việt Nam từ lâu, đã lợi dụng cơ hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ chức, chỉ huy ngụy quyền, ngụy quân tay sai, viện trợ kinh tế quân sự, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài nước ta. Cả dân tộc ta lại bước vào cuộc chiến đấu chống xâm lược mới. Trước bối cảnh đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tháng 10/1956, tại Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng lần thứ X (khóa II), Chủ tịch Hồ Chí Minh được cử giữ chức Chủ tịch Đảng. Tại Đại hội lần thứ III của Đảng (1960), Người được bầu lại làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đường lối đúng đắn, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và công cuộc cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thắng lợi; đặt nền móng và không ngừng vun đắp tình hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, giữa Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) với các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.
Ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời là tổn thất vô cùng lớn lao. Đồng bào và chiến sĩ cả nước ta thương nhớ Người khôn xiết.Sự ra đi của Người để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn dân tộc Việt Nam và tình đoàn kết thân ái với nhân dân tiến bộ trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta và vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên thế giới. Người đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là tấm gương sáng ngời cho lớp lớp thế hệ người Việt Nam học tập và noi theo. Tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ còn mãi với non sông đất nước, sống mãi trong lòng mỗi chúng ta.
Những nhân tố dân tộc và thời đại kết hợp với những phẩm chất cá nhân hiếm có đã tạo nên Hồ Chí Minh – người
Anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa được cả thế giới tôn vinh và ngưỡng mộ.Bằng tất cả sức lực và trí tuệ, tâm hồn và tình cảm, Người đã cống hiến cho dân tộc, cho nhân dân, cho cách mạng Việt Nam và cả nhân loại những gì tốt đẹp nhất.
Xác định đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Mục đích cao đẹp này là tất cả ý nghĩa cuộc sống, là lẽ sống thiêng liêng của người thanh niên Nguyễn Tất Thành khi ra nước ngoài đi tìm đường cứu nước, giành lại độc lập dân tộc. Với tinh thần cách mạng triệt để, sáng tạo, Hồ Chí Minh đã đem ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin soi sáng phong trào yêu nước, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, làm cho chủ nghĩa yêu nước truyền thống vươn lên tầm thời đại, trở thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. Theo nhận thức của Người: Nếu không được chủ nghĩa Mác-Lênin soi sáng thì chủ nghĩa yêu nước truyền thống sẽ rơi vào tình trạng bất cập trước kẻ thù mới và thời đại mới. Sáng tạo trong lý luận về tính chủ động và vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa: Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm các cuộc cách mạng trên thế giới, nhất là Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc, nhân dân các dân tộc ở các nước thuộc địa có thể đứng lên tự giải phóng chính mình và cuộc cách mạng có thể thắng lợi trước. Người ví chủ nghĩa tư bản thực dân như con đỉa hai vòi hút máu nhân dân lao động ở cả chính quốc và thuộc địa. Do vậy giai cấp công nhân và những người lao động ở chính quốc và thuộc địa cần phải đoàn kết làm cách mạng chặt cả hai đầu của con đỉa thực dân. Khi đứng lên đấu tranh tự giải phóng mình, các dân tộc thuộc địa ở phương Đông có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây và cách mạng ở chính quốc... Những luận điểm sáng tạo đó của Nguyễn Ái Quốc có tầm quan trọng to lớn, bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Xác định đúng động lực trong cách mạng giải phóng dân tộc và xác định đúng những lực lượng thực hiện công cuộc cách mạng đó: Không giống như các nước tư bản phương Tây, ở các nước thuộc địa và phụ thuộc phương Đông, mà Việt Nam là một trường hợp điển hình, nổi bật lên mục tiêu trước mắt là giành độc lập dân tộc. Nhiệm vụ giành độc lập dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức, nô lệ là nhiệm vụ mang ý nghĩa cấp bách, sống còn được đặt trước nhiệm vụ đấu tranh giai cấp.Giành được độc lập, giải phóng dân tộc sẽ tạo tiền đề để giải phóng giai cấp, giải phóng con người.Trong cuộc đấu tranh này, lực lượng lãnh đạo cách mạng cần tập hợp được khối lực lượng đông đảo nhất, huy động được sức mạnh đoàn kết to lớn nhất mới bảo đảm giành được thắng lợi. Sự vận dụng sáng tạo đường lối của Quốc tế Cộng sản khi đó vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc thể hiện rõ ở tinh thần: Tập trung vào nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc, đoàn kết tập hợp mọi lực lượng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân để chống đế quốc và tay sai. Theo Hồ Chí Minh, khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng của khối liên minh công nông và trí thức là lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam. Yếu tố dân tộc, trong đó điểm nhấn quan trọng là độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân đã được Nguyễn Ái Quốc kết hợp nhuần nhuyễn và sáng tạo với yếu tố giai cấp, yếu tố quốc tế từ trong việc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (
Chánh cương vắn tắt và
Sách lược vắn tắt) và cả quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong những giai đoạn sau.
Xây dựng Đảng Cộng sản - lực lượng tiên phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam:
với tinh thần đem sức ta mà giải phóng cho ta, nắm vững luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Cách mệnh trước hết phải có Đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công, Nguyễn Ái Quốc đã nỗ lực chuẩn bị về mọi mặt để thành lập một đảng cộng sản chân chính, đảm nhận vững chắc vị trí lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Xây dựng tổ chức Đảng về mọi mặt: lý luận, tư tưởng, tổ chức, con người; rèn luyện cán bộ đảng viên theo những chuẩn mực của một đảng Mác-Lênin chân chính, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm lãnh đạo nhân dân hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng là mối quan tâm lo lắng hàng đầu của Hồ Chí Minh để Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Trong hệ thống những luận điểm được Hồ Chí Minh nêu lên và yêu cầu nghiêm túc thực hiện trong công tác xây dựng Đảng có thể nêu bật một số nội dung: tuân thủ và vận dụng những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của một đảng Mác - Lênin, Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; về nguyên tắc tập trung dân chủ; về tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách; về tự phê bình và phê bình; về kỷ luật nghiêm minh và tự giác; về đoàn kết thống nhất trong Đảng; về xây dựng, củng cố tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân; đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới; phải dựa vào dân để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, vì lợi ích của nhân dân; về tiêu chuẩn, phẩm chất cán bộ, đạo đức đảng viên và công tác cán bộ của Đảng. Những luận điểm này vừa mang ý nghĩa định hướng, ý nghĩa về phương pháp luận, vừa là những chỉ dẫn cụ thể, đồng thời cũng chứa đựng sự mong muốn thiết tha của Người. Những thắng lợi lịch sử của cách mạng Việt Nam và sự trưởng thành của Đảng Cộng sản Việt Nam qua việc lãnh đạo nhân dân vượt qua những khó khăn, hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng to lớn đã minh chứng tính đúng đắn và sự vận dụng thành công những luận điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam.
Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc: Đại đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam.Truyền thống này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới.Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết chặt chẽ của Đảng là nhân tố quan trọng hàng đầu để đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế. Đại đoàn kết không phải là một sách luợc nhằm giải quyết những nhiệm vụ trước mắt có tính nhất thời mà là một chiến lược nhất quán, xuyên suốt toàn bộ quá trình cách mạng nhằm phát huy đến mức cao độ sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại vì mục tiêu độc lập dân tộc; dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Thực hiện thành công chiến lược cách mạng này, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành những thắng lợi to lớn cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết xây dựng lực lượng cách mạng đã được người đúc kết bằng khẩu hiệu: “'Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công”'. Với trí tuệ và sự sáng tạo của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành công trong việc xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam và góp phần to lớn củng cố đoàn kết quốc tế. Thành công đó chẳng những đưa đến thắng lợi của cách mạng mà còn đóng góp vào kho tàng lý luận cách mạng chung.
Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập - người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng và tác chiến của đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu đã được Hồ Chí Minh chỉ rõ trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (12-1944). Đây có thể coi là cương lĩnh quân sự đầu tiên của Đảng, đánh dấu bước hoàn chỉnh lý luận về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong thời kỳ chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Khi tiến hành kháng chiến chống các đế quốc xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta nhấn mạnh tính chất toàn dân, toàn diện, trường kỳ, đánh giặc bằng ba thứ quân trên tất cả các vùng chiến trường. Trong việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Quân đội ta là đội quân chiến đấu, công tác và sản xuất. Những luận điểm đó trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển truyền thống quân sự của dân tộc lên một tầm cao mới đã là ngọn cờ chỉ đạo quân – dân ta đánh giặc. Quân đội nhân dân Việt Nam đã cùng nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa thắng lợi, kháng chiến trường kỳ 30 năm để Tổ quốc hoàn toàn độc lập, thống nhất, dân tộc ta là dân tộc anh hùng, quân đội ta trở thành quân đội anh hùng, là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cống hiến to lớn của Người với cách mạng Việt Nam và thế giới.
Chớp thời cơ Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi: Chọn đúng thời cơ là một khoa học và là một nghệ thuật. Trong tất cả các cuộc cách mạng, đặc biệt là cách mạng giải phóng dân tộc, vấn đề xác định thời cơ, chuẩn bị lực lượng cách mạng để chớp thời cơ khởi nghĩa, là những yếu tố hết sức quan trọng, quyết định đến sự thành bại. Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một minh chứng sinh động về sự nhạy bén trong nhận định và chỉ đạo chớp thời cơ khởi nghĩa của Hồ Chí Minh và Đảng ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa toàn dân, khởi nghĩa dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về khởi nghĩa vũ trang. Tư tưởng đó đi vào thực tiễn cách mạng Việt Nam đã tạo ra sức mạnh vĩ đại và đó là một trong những nhân tố quyết định đảm bảo cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Khi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra và lan rộng khắp châu Âu, tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến mau lẹ, Hồ Chí Minh đã sớm nhìn thấy quy luật vận động cách mạng, suy đoán về thời cơ cách mạng. Đầu năm 1941, Người về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng, chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám với tinh thần đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết và phải quyết tâm giành cho được độc lập, chủ động tạo ra thời cơ cách mạng, chỉ đạo tích cực xây dựng lực lượng (củng cố và tăng cường Đảng; xây dựng mặt trận Việt Minh để đoàn kết toàn dân, thành lập, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng các căn cứ địa cách mạng...), sẵn sàng đón thời cơ, khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Thành công lớn nhất của nghệ thuật khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám là đã chọn đúng thời cơ, nổ ra đúng lúc.Chọn đúng thời cơ lịch sử để phát động Tổng khởi nghĩa đã làm sức mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, giành thắng lợi triệt để một cách nhanh, gọn, không đổ máu.
Xây dựng chính quyền cách mạng - Nhà nước của dân, do dân, vì dân: trên cương vị là Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và giữ cương vị đó từ 2-9-1945 đến lúc vĩnh biệt chúng ta (2-9-1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp công vô cùng to lớn vào việc tổ chức, xây dựng, kiện toàn Nhà nước Việt Nam một chính quyền cách mạng, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trước đó, khi phát động Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc, tổ chức Đại hội quốc dân Tân Trào, chuẩn bị mọi điều kiện xây dựng chính quyền của nhân dân sau khi tổng khởi nghĩa thắng lợi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tổ chức, động viên sức mạnh toàn dân tộc, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Bắc và đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội với những thành quả to lớn, tỏ rõ sức mạnh của chế độ và nhà nước dân chủ nhân dân, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam. Với tầm nhìn văn hóa sâu rộng, với kinh nghiệm chính trị phong phú và đầy sáng tạo, Hồ Chí Minh đã thành công trong việc lãnh đạo, tổ chức và xây dựng Nhà nước kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, phấn đấu vì độc lập tự do của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Nhà nước này đã lãnh đạo và quản lý đất nước cùng nhân dân vượt qua nhiều khó khăn thách thức phức tạp của lịch sử, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước bước vào thời kỳ hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển.
Đặt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong xu thế thời đại, mở rộng quan hệ quốc tế cho cách mạng Việt Nam: đồng thời với việc giải quyết thành công vấn đề dân tộc và giai cấp trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh cũng đã thành công trong chiến lược đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng xây dựng tình đoàn kết hữu nghị của nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước và nhân loại tiến bộ. Người luôn đặt cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong dòng chảy chung của cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức của giai cấp vô sản và loài người tiến bộ trên toàn thế giới. Khi xác định phương châm của cuộc kháng chiến chống Pháp là
toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, Người vẫn tìm mọi cơ hội tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế giữa vòng vây của kẻ thù. Trong kháng chiến chống Mỹ, chủ trương đoàn kết tranh thủ mọi sự ủng hộ của ba lực lượng: phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và phong trào hòa bình thế giới đã tập hợp được mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam... Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Chính vì
đã biết kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và của các dân tộc bị áp bức,mà Đảng ta đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ vang ngày nay”. Những quan điểm của Hồ Chí Minh kết hợp hài hòa những điều kiện khách quan (đoàn kết quốc tế, tranh thủ cơ hội, tranh thủ sự liên minh giúp đỡ của bạn bè bốn phương) với điều kiện chủ quan (sức mạnh nội lực của dân tộc) để huy động đến mức cao nhất mọi nguồn lực cho việc thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng đã để lại cho chúng ta nhiều giá trị và bài học quý báu trong quá trình tiến hành đổi mới, hội nhập để phát triển trong bối cảnh quốc tế mới ở thế kỷ XXI.
Trước khi giành lại được độc lập, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến với nền sản xuất nông nghiệp nhỏ bé và lạc hậu. Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một sự vận dụng sáng tạo những lý luận về cách mạng vô sản, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện thực tiễn ở Việt Nam.
Xác định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp với những đặc điểm rất riêng của một xã hội phương Đông, với nền sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ bé, tính chất khép kín trong từng khu vực, với một nền văn hóa - xã hội chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nho giáo và đất nước bị chia cắt làm hai miền, hai chế độ chính trị đối lập nhau. Từ cơ sở nhận rõ đặc điểm lớn nhất của Việt Nam là từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ ý nghĩa quan trọng và nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ như một bước chuyển quan trọng, một giai đoạn bản lề để Việt Nam thoát khỏi nền sản xuất nông nghiệp nhỏ bé lạc hậu, để trở thành một nước có nền kinh tế phát triển, văn hóa, khoa học tiên tiến, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Người nói về mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam rất dễ hiểu là làm cho dân giàu, nước mạnh, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Hồ Chí Minh đã xuất phát từ thực tiễn đất nước có những sáng tạo lớn trong chủ trương xây dựng phát triển kinh tế, phát triển cả nông nghiệp, công nghiệp với những mục tiêu nhiệm vụ của từng giai đoạn một cách cụ thể, thiết thực.
Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền Nam - Bắc, thống nhất đất nước và tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa: Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, tình hình ở hai miền đã phát triển theo hai hướng khác nhau với những nhiệm vụ cách mạng cụ thể khác nhau. Tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương 13, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến việc đồng thời tiến hànhh nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở hai miền: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ cách mạng nói trên đều quan trọng, coi nhẹ một nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm. Cách mạng miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau song cùng hướng đến mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Đường lối thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền Nam Bắc được hình thành và hoàn thiện từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn đấu tranh đồng thời có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận. Việc thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền Việt Nam là điều chưa có tiền lệ trong lịch sử đấu tranh của các dân tộc từ địa vị thuộc địa, nô lệ vươn lên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Đây là sáng tạo lớn về mặt lý luận của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trước chủ nghĩa thực dân mới, giữa một thế giới phân cực đang có những biến đổi phức tạp.
Kế thừa và vận dụng những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội để xây dựng Cương lĩnh phát triển đất nước, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam dân chủ và phồn vinh, góp phần xây dựng một trật tự thế giới mới. Thế giới toàn cầu hóa và khu vực hóa dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Khái niệm về chủ quyền, về an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, khái niệm về độc lập về chính trị và kinh tế cũng mang những nội dung mới. Cuộc đấu tranh cho nền độc lập hoàn toàn, cho tự do và bình đẳng thực sự giữa các dân tộc vừa thoát khỏi sự nô dịch thuộc địa vẫn chưa kết thúc. Các nước đang phát triển vừa mới thoát khỏi chế độ thuộc địa đang phải đối phó với nguy cơ “tái thuộc địa hóa” dưới sự chi phối, kiểm soát về kinh tế và công nghệ của một thứ ''chủ nghĩa thực dân mới - kiểu mới''. Xu thế toàn cầu hóa bị chi phối bởi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, bởi sự áp đặt về nhiều mặt chính trị, kinh tế, văn hóa của các nước lớn với những nước có nền kinh tế yếu kém hơn.
Trong bối cảnh thế giới mới
, tư tưởng Hồ Chi Minh vẫn giữ nguyên giá trị và sức sống khi cuộc đấu tranh của các dân tộc bảo vệ nền độc lập dân tộc, khẳng định bản sắc nền văn hóa dân tộc, tự do lựa chọn con đường phát triển của mình chống lại sự lệ thuộc về kinh tế, kỹ thuật, sự áp đặt về chính trị, văn hóa và đang trở thành một trào lưu rộng lớn. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam phải lãnh đạo nhân dân Việt Nam hoàn thành những nhiệm vụ lịch sử đó, làm cho đất nước phát triển về mọi mặt. Trong bước chuyển từ xã hội cũ tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta có rất nhiều công việc phải làm, nhưng tựu trung lại có thể tóm tắt ở những điểm sau: (i) trên cơ sở giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế, cải tạo nền kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học, tiên tiến, xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội; (ii) gắn sự phát triển kinh tế với sự phát triển xã hội,
dân giàu nước mạnh phải gắn với tiến bộ,
công bằng xã hội. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân phải cùng được nâng cao.Bảo đảm sự phát triển bình đẳng của mọi dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; (iii) phát triển kinh tế gắn chặt với sự phát triển văn hóa - xã hội, khoa học, giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trong thời đại mới. Trên cơ sở kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp, loại bỏ những điều đã lạc hậu, tiếp thu những giá trị tinh hoa – văn hóa nhân loại để đưa nước ta dần trở thành một nước có trình độ phát triển cao.
Xây dựng đường lối phải xuất phát từ thực tiễn; lấy thực tiễn là thước đo sự đúng đắn của đường lối: Hồ Chí Minh có phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, với nét đặc sắc là hướng đến thực tiễn, gắn bó nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn. Người coi chủ nghĩa Mác-Lênin là cái “cẩm nang thần kỳ” nhưng không phải theo nghĩa đơn giản rằng trong đó đã chứa sẵn những công thức, những khuôn mẫu, những ''đơn thuốc'' kê sẵn... mà cái cẩm nang đó chứa đựng những tinh thần, lập trường, quan điểm và phương pháp giúp những người cách mạng nhận thức tình hình và hành động một cách đúng đắn. Những thắng lợi lịch sử của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã minh chứng cho sự đúng đắn, sáng suốt khi phân tích những đặc điểm tình hình Việt Nam để vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và truyền thống văn hóa Việt Nam khi lựa chọn con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, cả trong cách mạng giải phóng dân tộc và cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện thực tiễn Việt Nam.
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trong những năm cuối thế kỷ XX đã chứng minh rằng không có một mô hình chủ nghĩa xã hội chung cho tất cả các nước. Việc thực hiện những bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội mỗi nước phải dựa trên quan điểm lịch sử cụ thể.Việt Nam kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa, trong phát triển nền kinh tế thị trường càng không thể nhận thức về chủ nghĩa xã hội một cách giáo điều máy móc trong tình hình mới. Chủ nghĩa Mác – Lênin tỏ rõ được sức sống ở Việt Nam, được bổ sung và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng là kết quả của tư duy Hồ Chí Minh luôn đứng vững trên nguyên tắc:
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn khi nghiên cứu, vận dụng, bổ sung, phát triển học thuyết cách mạng chân chính này lên tầm cao thời đại.
Trong thực tiễn: Kiên quyết bảo vệ độc lập dân tộc, đồng thời tích cực mở rộng quan hệ quốc tế; tranh thủ cơ hội huy động mọi nguồn lực để phát triển: Độc lập tự do là giá trị cao nhất trong mọi giá trị của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Những giá trị phổ quát đó đã được cả nhân loại thừa nhận. Độc lập tự do là ngọn cờ của phong trào đấu tranh vĩ đại của nhân dân các dân tộc bị áp bức chống sự nô dịch của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trong thế kỷ XX. Dân tộc Việt Nam anh dũng đi đầu trong cuộc đấu tranh đó. Đoàn kết chiến đấu hy sinh dưới ngọn cờ độc lập tự do Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã làm nên những kỳ tích vẻ vang. Từ một đất nước bị nước ngoài xâm chiếm, từ một dân tộc nô lệ, Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập thống nhất, ngày càng có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế. Trong chặng đường cách mạng mới, tư tưởng Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập tự do” vẫn soi sáng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam.
Cục diện thế giới đã trải qua những đảo lộn sâu sắc, tác động đến nhiều mặt đời sống kinh tế, chính trị xã hội, đặt cách mạng Việt Nam trước nhiều thuận lợi và không ít khó khăn thách thức. Trong quá trình hội nhập tham gia vào nền kinh tế khu vực và thế giới, trên cơ sở giữ vững quyền độc lập tự chủ, giữ gìn môi trường hòa bình và với nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, Việt Nam phải tạo ra được một năng lực nội sinh làm nền tảng cho sự phát triển bền vững. Mục tiêu phát triển nhanh và bền vững có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ nền độc lập tự do. Ngược lại, giữ vững chủ quyền dân tộc, bảo vệ vững chắc nền hòa bình và bản sắc văn hóa, sẽ tạo cho quốc gia có một vị thế vững chắc trên trường quốc tế, tạo điều kiện để linh hoạt, năng động, đa dạng hóa các mối quan hệ, tận dụng được những ưu thế của mình, tranh thủ được cơ hội và vị trí tối ưu trong hợp tác kinh tế và phân công lao động quốc tế để phát triển. Trong giai đoạn cách mạng mới,
"dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" là mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam.Mục tiêu đó phải được coi là điểm tương đồng lớn nhất của toàn dân ta, là đích phấn đấu của mọi hành động cách mạng, tiêu chí để đánh giá tác dụng và hiệu quả của mỗi công việc. Đây cũng là điều hợp với mong ước cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
Di chúc thiêng liêng của Người: “Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Theo Chi đoàn Cục THADS tỉnh