Biện pháp khẩn cấp tạm thời được hiểu là biện pháp mà Toà án quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án.
Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án được thi hành theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 2, Luật THADS năm 2008 được sửa đổi bổ
sung năm 2014 và năm 2022 (Luật THADS). thi hành theo Luật THADS. Căn cứ khoản 2, Điều 36, Luật THADS, sau khi nhận được Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án, Thủ trưởng cơ quan THADS có thẩm quyền phải ra ngay quyết định thi hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành.
Việc thi hành các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án được quy định tại Điều 130, Luật THADS; Điều 13, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, được sửa đổi bởi Nghị định số 120/2016/NĐ-CP, ngày 23/8/2016 và Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, ngày 17/3/2020 của Chính phủ (Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ).
Khoản 1, Điều 130, Luật THADS quy định về “Thủ tục thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời” quy định:
“
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được quyết định thi hành án, Chấp hành viên phải áp dụng ngay các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế sau đây:
a) Biện pháp cưỡng chế quy định tại các điều 118, 119, 120 và 121 của Luật này để bảo đảm thi hành quyết định về cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định; giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; tạm đình chỉ quyết định sa thải người lao động;
b) Biện pháp cưỡng chế quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 71 của Luật này để bảo đảm thi hành quyết định về buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng; buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm; buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động;
c) Biện pháp cưỡng chế quy định tại Điều 75 của Luật này để đảm bảo thi hành biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định về kê biên tài sản đang tranh chấp;
d) Biện pháp bảo đảm quy định tại các điều 66, 67, 68 và 69 của Luật này để bảo đảm thi hành quyết định về cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ; phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ;
đ) Biện pháp cưỡng chế quy định tại khoản 3 Điều 71 và các điều 98, 99, 100 và 101 của Luật này để bảo đảm thi hành quyết định về cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm hàng hóa khác”.
Khoản 1, Điều 13, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, ngày 18/7/2015 của Chính phủ về “Áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án” quy định:
“
Chấp hành viên được áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án trong trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Điều 130 Luật Thi hành án dân sự”.
Tuy nhiên trong thực tế hiện nay, do có sự nhận thức khác nhau về quy định pháp luật của Chấp hành viên dẫn đến việc tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thực hiện theo 02 cách sau:
Thứ nhất: sau khi đã ban hành quyết định thi hành án, Chấp hành viên ban hành quyết định bảo đảm, cưỡng chế thi hành án theo nội dung của quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án, sau đó thực hiện việc giao, tống đạt các Văn bản, quyết định về thi hành án và tổ chức thi hành án theo các thủ tục quy định trong Luật THADS và các Văn bản hướng dẫn thi hành. Cách thức này được hầu hết các Chấp hành viên và Cơ quan THADS thực hiện;
Ví dụ 1: Tòa án ban hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo khoản 1, Điều 114, Luật TTDS năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2019 về
“Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục”. Sau khi đã ban hành quyết định thi hành án, Chấp hành viên áp dụng Điều 120, Luật THADS ra quyết định cưỡng chế “
Buộc giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định”, sau đó tổ chức thi hành án theo thủ tục chung;
Ví dụ 2: Tòa án ban hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, theo khoản 10, Điều 114, Luật TTDS năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2019 về “
Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước”. Sau khi Thủ trưởng Cơ quan THADS ban hành quyết định thi hành án, Chấp hành viên áp dụng Điều 67, Luật THADS ra quyết định bảo đảm thi hành án về “
Phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ”, sau đó tổ chức thi hành án theo thủ tục chung;
Thứ 2: sau khi Thủ trưởng Cơ quan THADS ban hành quyết định thi hành án, Chấp hành viên thực hiện việc giao, tống đạt các Văn bản, quyết định của Tòa án và Cơ quan THADS về thi hành án và tổ chức thi hành án theo các thủ tục quy định trong Luật THADS và các Văn bản hướng dẫn thi hành. Cách thức này chỉ một số ít Chấp hành viên và Cơ quan THADS thực hiện;
Qua phân tích cơ sở pháp lý trong việc ban hành và tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhận thấy:
- Theo quy định tại khoản 1, Điều 130, Luật THADS thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được quyết định thi hành án, Chấp hành viên “
phải áp dụng ngay các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế”, còn tại khoản 1, Điều 13, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định “
Chấp hành viên được áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án trong trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Điều 130 Luật Thi hành án dân sự”. Như vậy quy định pháp luật yêu cầu Chấp hành viên “
được áp dụng” và
“phải áp dụng ngay” các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế mà không cần phải ban hành quyết định về bảo đảm, cưỡng chế theo quy định tại Luật THADS, theo nội dung của quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án;
- Ngoài quy định tại Điều 130, Luật THADS và Điều 13, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ, tại Điều 70, Luật THADS có quy định: “
Căn cứ để cưỡng chế thi hành án bao gồm.... trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án”. Như vậy, trong trường hợp quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án áp dụng biện pháp cưỡng chế, pháp luật quy định rõ Chấp hành viên không cần phải ban hành quyết định cưỡng chế theo quy định tại Luật THADS khi thi hành quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án;
- Căn cứ theo Điều 114
Bộ luật TTDS năm 2015, có 17 biện pháp khẩn cấp tạm thời. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10, 11, 15 và 16 Điều 114 của Bộ luật TTDS năm 2015 gồm
“Kê biên tài sản đang tranh chấp; Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ; Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ; Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu; Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án”, ngoài các quy định chung thì người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp cho Tòa án chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của Ngân hàng hoặc Tổ chức tín dụng khác hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Tòa án ấn định nhưng phải tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu;
- Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường, theo quy định tại khoản 2, Điều 113 Bộ luật TTDS năm 2015.
- Ngoài những cơ sở nêu trên, nhận thấy cùng một nội dung “
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời”, nhưng cả Tòa án và Cơ quan THADS đều ban hành quyết định thực hiện là không phù hợp với quy định chung của pháp luật;
Từ những phân tích nêu trên cho thấy khi thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án, Chấp hành viên không ban hành quyết định bảo đảm, cưỡng chế theo Luật THADS theo nội dung của quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án, mà thực hiện ngay việc giao, tống đạt các Văn bản, quyết định về thi hành án và tổ chức thi hành án theo các thủ tục chung, quy định trong Luật THADS và các Văn bản hướng dẫn thi hành./.
Văn Hùng_Phòng 11, VKSND tỉnh Kiên Giang