1. Nội dung vụ việc:
Bà bà Huỳnh Thị L phải thi hành 02 quyết định của Tòa án nhân dân thành phố R, tỉnh K, cụ thể:
* Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 79/QĐST-DS ngày 12/6/2012 xét xử, quyết định: … Bà Nguyễn Thị M và bà Huỳnh Thị L phải trả nợ cho bà Nguyễn Thị Hồng N số tiền nợ gốc là 596.000.000 đồng và tiền lãi tính đến ngày 04/6/2012 là 22.000.000 đồng, tổng cộng tiền gốc và lãi là 618.000.000 đồng (Sáu trăm mười tám triệu đồng). Hai bên thống nhất cách trả nợ như sau:
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Dương Thị H thỏa thuận đồng ý cho bà M và bà L cùng chịu trách nhiệm liên đới trả cho bà N số tiền nợ gốc và lãi là 618.000.000 đồng trong thời gian 05 tháng, kể từ ngày 04/6/2012 đến ngày 04/11/2012.
Hai bên tự giao nhận tiền hoặc giao nhận do Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Rạch Giá thực hiện.
Kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn không thi hành số tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
* Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 138/2012/QĐST-DS ngày 22/10/2012 xét xử, quyết định: … bà Huỳnh Thị L thừa nhận hiện nay còn nợ ông Lê Nhựt Q tổng số tiền 1.334.375.000đ. Ông Lê Nhựt Q và bà Huỳnh Thị L thống nhất cho bà Huỳnh Thị L trả dứt số tiền 1.334.375.000đ, trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày (12/10/2012 đến ngày 12/12/2012). Bà L cam kết đến ngày 12/12/2012 mà chưa trả dứt số tiền 1.334.375.000đ cho ông Lê Nhựt Q, thì bà L có trách nhiệm giao tài sản là căn nhà gắn liền với đất tọa lạc tại Lô E2-46 đường Phạm Hùng, phường Vĩnh Lạc, thành phố R, tỉnh K theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số BC191251 do UBND thành phố R cấp ngày 09/11/2010 mang tên Huỳnh Thị L cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố R, tỉnh K để phát mãi đảm bảo thi hành án.
Kể từ ngày 12/12/2012, nguyên đơn có yêu cầu thi hành án nếu bị đơn không trả nợ trên thì còn phải trả cho nguyên đơn khoản tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản do ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
2. Quá trình thi hành án
Căn cứ đơn yêu cầu thi hành án của bà Nguyễn Thị Hồng N, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố R ban hành Quyết định thi hành án số 1165/QĐ-CCTHA ngày 21/6/2012 và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành án.
Quá trình thi hành án, qua xác minh cho thấy: bà Nguyễn Thị M và bà Huỳnh Thị L (người phải thi hành án, đồng thời là 02 mẹ con) có tài sản là căn nhà tọa lạc tại Lô E2-46 đường Phạm Hùng, phường Vĩnh Lạc, thành phố R. Do đó, để đảm bảo thi hành án, tránh việc người phải thi hành án tẩu tán tài sản, Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự thành phố R đã có Công văn số 715/CV-CCTHA ngày 11/7/2012 đề nghị các ngành phối hợp ngăn chặn không cho bà M, bà L tẩu tán tài sản nêu trên.
Do bà M, bà L không tự nguyện thi hành án nên ngày 19/11/2012, Chấp hành viên ra Quyết định số 04/QĐ-CCTHA cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản và ngày 14/12/2012 tổ chức kê biên tài sản nêu trên của bà M và bà L để đảm bảo thi hành án.
Sau khi Chấp hành viên ra quyết định kê biên tài sản thì ông Lê Nhựt Q có đơn yêu cầu thi hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 138/2012/QĐST-DS ngày 22/10/2012 của Tòa án nhân dân thành phố R. Ngày 17/01/2013, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố R ban hành Quyết định thi hành án số 506/QĐ-CCTHA.
Tiếp đó, để xử lý tài sản đã kê biên Chấp hành viên tiến hành các trình tự thủ tục bán đấu giá theo quy định. Tài sản được bán đấu giá thành với giá 1.400.252.000 đồng và ngày 12/4/2016 Chấp hành viên đã giao tài sản cho người mua trúng đấu giá tài sản là ông Huỳnh Văn T. Sau đó, Chấp hành viên tiến hành chi trả tiền thi hành án theo khoản 2 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự, cụ thể: Chấp hành viên ưu tiên thanh toán cho bà Nguyễn Thị Hồng N số tiền nợ gốc là 596.000.000 đồng và tiền lãi, số còn lại thanh toán cho ông Lê Nhựt Q. Tuy nhiên, ông Q không nhận tiền và có đơn gửi nhiều cấp, nhiều ngành khiếu nại việc thanh toán tiền thi hành án của Chấp hành viên.
3. Các quan điểm khác nhau:
Về việc ưu tiên thanh toán tiền thi hành án đối với vụ việc cụ thể nêu trên hiện nay có 02 quan điểm, cụ thể:
* Quan điểm 1: Theo nội dung Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 138/2012/QĐST-DS ngày 22/10/2012 của Tòa án nhân dân thành phố R thì trước khi xảy ra tranh chấp, bà Huỳnh Thị L đã thế chấp căn nhà gắn liền với đất tọa lạc tại Lô E2-46 đường Phạm Hùng, phường Vĩnh Lạc, thành phố R, tỉnh K để vay số tiền 1.334.375.000đ. Bà Huỳnh Thị L thỏa thuận bán tài sản thế chấp tại Ngân hàng cho ông Lê Nhựt Q. Theo quy định của Ngân hàng thì bà L thế chấp tài sản nên bà L phải thanh toán hết khoản vay mới được giải chấp tài sản nên ông Q đã đưa tiền cho bà L trả nợ cho Ngân hàng để giải chấp căn nhà. Như vậy, nếu ông Q không đưa tiền cho bà L trả tiền cho Ngân hàng thì tài sản trên là tài sản bảo đảm cho khoản vay của Ngân hàng. Ngay sau khi tài sản được giải chấp, Chấp hành viên có Công văn số 715/CV-CCTHA ngày 11/7/2012 đề nghị các ngành phối hợp ngăn chặn không cho bà M, bà L chuyển dịch tài sản nên bà M, bà L không chuyển nhượng được tài sản cho ông Q. Mặt khác, quyết định của tòa án cũng có nội dung: Trường hợp bà Huỳnh Thị L không trả được nợ cho ông Lê Nhựt Q, thì bà L có trách nhiệm giao tài sản là căn nhà gắn liền với đất nêu trên cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố R, tỉnh K để phát mãi đảm bảo thi hành án. Do đó, ông Q được ưu tiên thanh toán theo khoản 3 Điều 147 Luật Thi hành án dân sự.
Quan điểm 2: Vụ việc này, Chấp hành viên ra quyết định kê biên căn nhà gắn liền với đất của bà Nguyễn Thị M và bà Huỳnh Thị L để thi hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 79/QĐST-DS ngày 12/6/2012 của Tòa án nhân dân thành phố R. Đồng thời, Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 138/2012/QĐST-DS ngày 22/10/2012 của Tòa án nhân dân thành phố R không có nội dung: phát mãi tài sản căn nhà gắn liền với đất của bà Nguyễn Thị M và bà Huỳnh Thị L để đảm bảo thi hành án khoản nợ của bà Huỳnh Thị L đối với ông Lê Nhựt Q mà chỉ xác định “phát mãi đảm bảo thi hành án”, trong khi đó bà L phải thi hành nhiều bản án, quyết định của tòa án. Do đó, tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế chỉ có bà Nguyễn Thị Hồng N là người được thi hành án nên bà N được ưu tiên thanh toán theo khoản 2 Điều 147 Luật Thi hành án dân sự.
Như vậy, việc ưu tiên thanh toán tiền thi hành án trong vụ việc nói trên có những quan điểm xử lý khác nhau. Vụ việc này tính đến thời điểm có Quyết định cưỡng chế số 04/QĐ-CCTHA ngày 19/11/2012 chỉ có bà Nguyễn Thị Hồng N là người được thi hành án. Đồng thời, Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 138/2012/QĐST-DS ngày 22/10/2012 của Tòa án nhân dân thành phố R không tuyên phát mãi căn nhà gắn liền với đất tọa lạc tại Lô E2-46 đường Phạm Hùng, phường Vĩnh Lạc, thành phố R, tỉnh K để bảo đảm thi hành khoản nợ của bà L đối với ông Q. Do đó, việc thanh toán tiền thi hành án được thực hiện theo quy định khoản 2 Điều 147 Luật Thi hành án dân sự. Theo quy định này thì bà Nguyễn Thị Hồng N được ưu tiên thanh toán tiền thi hành án. Vì vậy, việc thanh toán tiền thi hành án đối với vụ việc cụ thể nêu trên được áp dụng khoản 2 Điều 147 Luật Thi hành án dân sự.
Theo Nguyễn Hằng-Tổng cục THADS