Thi hành án dân sự trong bối cảnh hội nhập quốc tế

13/02/2019
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nói đang diễn ra ngày càng sâu rộng và đi vào thực chất, liên tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện. Chúng tác động đến không chỉ ở phạm vi quốc gia, các cơ quan nhà nước mà còn các doanh nghiệp và thậm chí cả mỗi một cá nhân.[1] Trong những năm qua, cùng với quá trình tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật tạo cơ chế thông thoáng để thu hút nguồn lực từ bên ngoài, đồng thời có các giải pháp để cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.


Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa khẳng định, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng và hoàn thiện là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế; có môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, mức độ minh bạch, ổn định cao; quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản được tôn trọng và bảo vệ hiệu quả, phù hợp với thông lệ, nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế. Cũng tại Nghị quyết này, thi hành án dân sự được xác định là một trong các hoạt động, lĩnh vực cần tập trung triển khai thực hiện nhằm góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.
Cùng với Nghị quyết số 11-NQ/TW của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XII, liên tục từ năm 2014 đến nay, hàng năm Chính phủ đều ban hành Nghị quyết về thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia (từ năm 2014 đến năm 2018 có chung số Nghị quyết 19/NQ-CP, riêng năm 2019 là Nghị quyết số 02/NQ-CP). Trong đó, thi hành án dân sự được xác định là một thành tố quan trọng cần phải được cải thiện trong chỉ số thực thi hợp đồng (chỉ số thực thi hợp đồng là 01 trong 10 chỉ số đo lường mức độ cạnh tranh của các nền kinh tế toàn cầu trong Báo cáo môi trường kinh doanh của Ngân hàng thế giới). Bằng Nghị Quyết thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia được ban hành hàng năm, Chính phủ đã thể hiện rõ quyết tâm không ngừng nỗ lực cải thiện các chỉ số nói trên để tạo ra một môi trường kinh doanh năng động, bình đẳng, hiệu quả. 
Trong thực tiễn pháp luật, dù được nhìn nhận dưới góc độ pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế thì vai trò của công tác thi hành án dân sự luôn được đề cao và coi trọng không chỉ như một trong những biện pháp đảm bảo thực thi công lý, hiện thực hóa các phán quyết của Tòa án trong thực tiễn của cuộc sống mà còn có một vai trò quan trọng trong hội nhập quốc tế.
Bàn về vai trò quan trọng của công tác THADS trong hội nhập quốc tế, Giáo sư Luật học Konstantinos D. Kerameus Chủ tịch Hiệp hội Hợp tác Khoa học của Bỉ trong cuốn sách: “Bối cảnh quốc tế về công tác thi hành án dân sự”, Nhà xuất bản Martinus Nijhoff phát hành năm 1997, đã chỉ ra rằng các nhà nghiên cứu pháp luật thi hành án dân sự trên thế giới đã nhận thức được vai trò ngày càng quan trọng của công tác thi hành án dân sự cũng như mối quan hệ và đóng góp của nó đối với sự phát triển của pháp luật quốc tế và nền kinh tế quốc tế.[1] Bà Viviane Reding - Phó Chủ tịch Ủy ban Châu Âu khi đề cập đến vai trò của thi hành án dân sự trong bối cảnh cải cách tư pháp đối với yêu cầu phát triển kinh tế ở Châu Âu đã cho rằng “Một hệ thống tư pháp hiệu quả và độc lập là một yếu tố then chốt để một quốc gia có thể thu hút đầu tư và kinh doanh. Đó là lý do vì sao một quyết định tư pháp được thi hành kịp thời, hiệu quả lại trở nên quan trọng và cũng là lý do mà yêu cầu cải cách nền tư pháp ở mỗi quốc gia thành viên Châu Âu được coi là một trong những yêu cầu quan trọng bắt buộc trong chiến lược phát triển kinh tế của Châu Âu”.[2]
1. Thực trạng công tác thi hành án dân sự trong bối cảnh hội nhập
1.1. Vai trò của thi hành án dân sự trong đánh giá môi trường đầu tư, kinh doanh quốc gia
 Theo Báo cáo đánh giá thường niên của Ngân hàng Thế giới (World Bank-WB) về những quy định thúc đẩy hoặc cản trở hoạt động đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực kinh tế tư nhân của 190 nền kinh tế thế giới, một trong những tiêu chí quan trọng khi xếp hạng thông thoáng môi trường đầu tư kinh doanh của mỗi quốc gia là việc đảm bảo thực thi hợp đồng (cụ thể là tiêu chí về thời gian và chi phí bảo đảm việc thực thi) thứ hạng của Việt Nam còn rất khiêm tốn. Tại Báo cáo, việc bảo đảm thực thi hợp đồng thông qua giải quyết tranh chấp của các toà án tại Việt Nam là 400 ngày xếp hạng 69/190; trong 400 ngày giải quyết tranh chấp hợp đồng, thụ lý của toà án là 50 ngày, xét xử và phán quyết là 200 ngày và thi hành án dân sự (thực thi phán quyết của toà án) là 150 ngày - xếp hạng 6/10 về thời gian thi hành án và 8/10 trong hiệu quả phá sản doanh nghiệp trong khối ASEAN. Đáng lưu ý từ năm 2010 đến nay, thời gian thi hành án (150 ngày) không có bất cứ thay đổi và cải thiện đáng kể. So sánh tương quan trong khu vực ASEAN, hiện nay lĩnh vực thi hành án dân sự của Việt Nam vẫn còn một khoảng cách khá xa, việc đạt giá trị của nhóm dẫn đầu ASEAN-4 còn là một thách thức lớn.
1.2. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Trong lĩnh vực hợp tác tư pháp và pháp luật, Việt Nam (Bộ Tư pháp) đã có quan hệ hợp tác với với hơn 80 quốc gia và tổ chức quốc tế, là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế quan trọng như: Liên minh công chứng quốc tế; Hiệp hội Luật sư Châu Á, Thái Bình Dương; Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia; Hội nghị Lahay về tư pháp quốc tế…. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã ký kết nhiều Hiệp định, Thoả thuận quốc tế trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật, các Hiệp định tương trợ tư pháp với các quốc gia và vùng lãnh thổ[3]. Trong khuôn khổ hợp tác với các nước trong  ASEAN, Việt Nam luôn chủ động, tích cực hợp tác với các nước như, tham gia các Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp các nước ASEAN; Diễn đàn pháp luật và tư pháp ASEAN; tổ chức các Hội nghị Tư pháp có chung đường biên giới; và tham gia nhiều Hội nghị chuyên đề trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp khác….
Tuy nhiên, trong lĩnh vực thi hành án dân sự, hiện nay Việt Nam chưa tham gia đàm phán, ký kết bất kỳ một điều ước, thỏa thuận quốc tế hoặc tham gia bất cứ một tổ chức quốc tế nào. Trong những năm qua, mặc dù Bộ Tư pháp (Tổng cục Thi hành án dân sự) cũng đã có một số hoạt động hợp tác với nước ngoài trong thi hành án dân sự như, tham gia các hội nghị thường niên về thi hành án dân sự; khảo sát, học tập kinh nghiệm của một số quốc gia trong công tác thi hành án dân sự; tổ chức một số hội thảo quốc tế với sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài về thi hành án dân sự….tuy nhiên hầu hết các hoạt động này đều mang tính nhỏ lẻ, vụ việc mà chưa theo một kế hoạch tổng thể lâu dài. Điều này, dẫn đến một số hạn chế cho lĩnh vực THADS trong việc hợp tác, trao đổi thông tin, học tập kinh nghiệm của các nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Do vậy, việc tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thi hành án dân sự là một yêu cầu tất yếu, khách quan và phù hợp với yêu cầu hội nhập chung của đất nước cũng như lĩnh vực tư pháp và pháp luật riêng của Bộ Tư pháp.
1.3. Trong lĩnh vực tương trợ tư pháp với các nước trong thi hành án dân sự
Do tác động của quá trình hội nhập, ngày càng nhiều tổ chức, cá nhân, nước ngoài đến làm việc, đầu tư, kinh doanh và cư trú tại Việt Nam; số lượng các tổ chức, cá nhân người Việt ra nước ngoài học tập, lao động, sinh sống cũng không ngừng được gia tăng. Điều này đã làm phát sinh các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động, kể cả tình trạng phạm tội của người nước ngoài tại Việt Nam cũng như của người Việt Nam ở nước ngoài. Cùng với việc gia tăng các quan hệ kinh tế, dân sự có yếu tố nước ngoài thì việc tổ chức thi hành án dân sự đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài phải thực hiện tương trợ tư pháp cũng không ngừng tăng lên theo từng năm. Khi phát sinh yêu cầu tương trợ tư pháp trong thi hành án dân sự, các cơ quan THADS đã lập hồ sơ ủy thác tư pháp theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam cũng như Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và nước tham gia ký kết. Về cơ bản, Luật Thi hành án dân sự, Luật Tương trợ tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan thi hành án dân sự thực hiện ủy thác tư pháp đối với các việc thi hành án dân sự có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, theo thống kê của Bộ Tư pháp, tỷ lệ yêu cầu uỷ thác tư pháp không có trả lời mặc dù đã giảm so với những năm trước nhưng vẫn ở mức cao (như trong lĩnh vực dân sự là gần 40%); thời gian thực hiện uỷ thác tư pháp vẫn kéo dài; uỷ thác tư pháp cho công dân Việt Nam ở nước ngoài không đáp ứng được yêu cầu của cơ quan tố tụng trong nước[4]. Việc không có hoặc chậm có kết quả thực hiện uỷ thác tư pháp đã ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hình sự, một số trường hợp có thể ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của Nhà nước và uy tín của các cơ quan tư pháp Việt Nam cũng như góp phần kéo dài quá trình tổ chức thi hành án và ảnh hưởng đến chất lượng tổ chức thi hành án.
Trong khi đó các văn bản pháp luật liên quan đến tương trợ tư pháp trong thi hành án dân sự như Luật Thi hành án dân sự, Luật Tương trợ tư pháp còn thiếu các quy định cụ thể để cơ quan THADS áp dụng trong hoạt động tương trợ tư pháp, cụ thể như sau:
- Pháp luật hiện hành về tương trợ tư pháp chưa quy định trách nhiệm cụ thể của cơ quan thi hành án dân sự trong hoạt động tương trợ tư pháp. Điều 62 Luật Tương trợ tư pháp và Điều 6 Nghị định 92/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Tương trợ tư pháp mặc dù quy định trách nhiệm của Bộ Tư pháp nhưng các nội dung này chưa đề cập đến việc tương trợ tư pháp trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
- Vướng mắc trong việc đảm bảo thi hành nghĩa vụ dân sự trong trường hợp chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 50 Luật Tương trợ tư pháp, người đang chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam có thể được chuyển giao cho nước ngoài để thi hành hình phạt tù khi đã thực hiện xong phần trách nhiệm dân sự, hình phạt bổ sung là phạt tiền, tịch thu tài sản và các trách nhiệm pháp lý khác trong bản án v.v… Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện cho thấy, người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam thường không có tài sản, không có việc làm, hoàn cảnh gia đình ở nước họ mang quốc tịch cũng khó khăn nên không có khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự. Ngay cả trường hợp đã chấp hành xong hình phạt tù cũng ít có khả năng tìm việc làm, có thu nhập tại Việt Nam để thi hành nghĩa vụ dân sự, đồng thời cũng không được xuất cảnh về nước.[5] Do đó, nếu tiếp tục quy định theo hướng này thì khó có thể thực hiện việc chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù.
- Phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự hẹp hơn so với một số Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết với các nước
Theo quy định tại Điều 10 Luật Tương trợ tư pháp, phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự chỉ gồm: (i) tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự; (ii) triệu tập người làm chứng, người giám định; (iii) thu thập, cung cấp chứng cứ và (iv) các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về dân sự. Phạm vi này hẹp hơn nhiều so với các nội dung mà một số điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết với các nước.[6] Trong khi đó, đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, việc tương trợ tư pháp của Việt Nam ra nước ngoài rất cần thiết để thực hiện các việc như: (i) Xác minh địa chỉ, nơi làm việc và thu nhập của người phải thi hành án; (ii) Tạm giữ, kê biên tài sản; (iii) Công nhận và cho thi hành tại nước ngoài bản án, phán quyết, quyết định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh của Việt Nam đối với công dân, tổ chức nước ngoài… Ngược lại, tại Việt Nam, do phạm vi tương trợ tư pháp chưa bao gồm những nội dung này, nên việc theo dõi, đánh giá, tổng kết tình hình thi hành các điều ước quốc tế trong lĩnh vực thi hành án dân sự thường bị bỏ sót.
Ngoài ra, việc theo dõi, đánh giá, thống kê tình hình công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của Tòa án, trọng tài nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức.
Như vậy, mặc dù Đảng, Nhà nước và Chính phủ ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật có cơ chế thông thoáng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường đầu tư kinh doanh, phục vụ công tác hội nhập kinh tế, quốc tế, tuy nhiên, nếu hoạt động thi hành các bản án, quyết định của tòa án trong nước cũng như thực thi phán quyết của tòa án, trọng tài nước ngoài bị chậm trễ, kéo dài và không hiệu quả thì đó sẽ là một rào cản lớn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, cản trở các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Khi đó, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ e ngại làm ăn với Việt Nam, nền kinh tế không thể cất cánh nếu thiếu vắng sự hợp tác tin cậy giữa các nước với Việt Nam, giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài[7]. Điều đó, đặt ra cho các cơ quan tài phán Việt Nam nói chung, cơ quan thi hành án dân sự nói riêng phải nỗ lực góp phần tạo nên môi trường kinh doanh lành mạnh.
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự trong bối cảnh hội nhập
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã xác định tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp là một trong tám nhiệm vụ cải cách tư pháp. Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 09-12-2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng xác định các nguyên tắc, định hướng, nhiệm vụ và giải pháp trong hợp tác với nước ngoài về pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Vì vậy, việc không ngừng đổi mới, hoàn thiện hoạt động thi hành án dân sự và tăng cường hơn nữa hiệu quả công tác thi hành án dân sự là một yêu cầu tất yếu, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới, yêu cầu hội nhập và các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp (Tổng cục Thi hành án dân sự) cần tập trung các giải pháp sau:
  1. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong thi hành án dân sự
Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp (Tổng cục Thi hành án dân sự) cần đẩy mạnh công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS theo phương cách bài bản hơn, chuyên nghiệp hơn. Các hình thức hợp tác quốc tế đặc trưng có thể được sử dụng là đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực thi hành án dân sự; tham gia các chương trình, dự án hợp tác với nước ngoài; tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm khoa học, tập huấn chuyên sâu có sự tham gia của các chuyên gia, cơ quan, tổ chức nước ngoài; tổ chức các đoàn khảo sát để nghiên cứu học tập kinh nghiệm của nước ngoài; tăng cường phối hợp với một số nước có nhiều hoạt động thi hành dân sự với Việt Nam hoặc nước có nhiều bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài và quyết định của trọng tài nước ngoài yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Trong các hình thức hợp tác nêu trên, cần chú trọng các hình thức hợp tác đi vào chiều sâu như ký kết các Thoả thuận hợp tác hoặc trở thành thành viên của tổ chức quốc tế về THADS.
Thông qua công tác hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ thu nhận được những thông tin, kinh nghiệm cần thiết để tham khảo trong quá trình thực hiện các hoạt động về thi hành án, nâng cao năng lực trình độ cho đội ngũ chấp hành viên, thẩm tra viên, và người làm công tác thi hành án dân sự. Đồng thời, qua hoạt động hợp tác quốc tế, chúng ta cũng giới thiệu cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của thi hành án dân sự của Việt Nam. Việc mở rộng quan hệ với các nước và tổ chức quốc tế sẽ đánh dấu sự hội nhập của thi hành án dân sự Việt Nam vào đời sống pháp lý quốc tế, minh chứng cho tinh thần sẵn sàng hợp tác của Việt Nam với các nước, và góp phần khẳng định vai trò, vị thế của hệ thống thi hành án dân sự trên trường quốc tế.
Trên cơ sở định hướng đó, Tổng cục THADS cần tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về thi hành án dân sự với các tổ chức quốc tế và các quốc gia; rà soát, nội luật hoá các nội dung cơ bản của điều ước quốc tế phù hợp với yêu cầu thực tiễn vào pháp luật của nước ta nhằm mục đích đưa pháp luật về thi hành án dân sự ngày càng tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế về thi hành án dân sự. Tham gia tích cực các định chế, các hội nghị, diễn đàn thi hành án dân sự quốc tế và khu vực như Hội nghị của Hiệp hội quốc tế các chức danh tư pháp (UIHJ), hội nghị thường niên về thi hành dân sự; đẩy mạnh việc đàm phán, ký kết thỏa thuận hợp tác về thi hành án dân sự với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, và quốc tế. Tăng cường hơn nữa sự phối hợp chung trong hoạt thi hành án các bản án, quyết định của Tòa án, trọng tài nước nước ngoài tại Việt Nam.
2.2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự theo hướng hội nhập, hài hòa hóa với pháp luật quốc tế về thi hành án dân sự
Thứ nhất, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, lĩnh vực THADS là một lĩnh vực có liên quan nhiều đến hợp tác với nước ngoài và có yếu tố liên quan đến nước ngoài. Đó là việc ủy thác tư pháp trong lĩnh vực thi hành án dân sự và thi hành các bản án, quyết định của Toà án, trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Việc Luật THADS năm 2013 chỉ có duy nhất 01 điều (Điều 181) đề cập đến hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS nhưng không quy định cụ thể về tương trợ tư pháp trong về dân sự trong thi hành án mà viện dẫn đến luật Tương trợ tư pháp nếu phát sinh yêu cầu về tương trợ tư pháp. Quy định của điều này cũng chưa được hướng dẫn cụ thể. Vì vậy, điều này đã gây khó khăn cho các cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên trong thực thi nhiệm vụ trong trường hợp phát sinh nội dung THADS có liên quan đến yếu tố nước ngoài.
Vì vậy, thời gian tới Bộ Tư pháp cần có những nghiên cứu để bổ sung các nội dung liên quan đến THADS có yếu tố nước ngoài hoặc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực THADS để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động THADS có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Cụ thể, Bộ Tư pháp cần đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự, Luật Tương trợ tư pháp, các nội dung liên quan đến thi hành án dân sự có yếu tố nước ngoài theo hướng mở rộng phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự, đảm bảo nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết với các nước; tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan thi hành án có thể ủy thác tư pháp cho nước ngoài thực hiện các việc liên quan đến xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức thi hành án; đồng thời,  tạo cơ chế theo dõi, đánh giá, tổng kết toàn diện và thường xuyên đối với công tác thực hiện tương trợ tư pháp cho nước ngoài tại Việt Nam.
  Thứ hai, để tạo nên sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật thi hành án dân sự, tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường đầu tư kinh doanh và hội nhập quốc tế, Bộ Tư pháp cần phối hợp với một số cơ quan liên quan trong việc nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung và kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm sửa đổi hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến THADS, đảm bảo sự tiệm cận và tiến tới hài hoà hoá giữa pháp luật về thi hành án dân sự Việt Nam với pháp luật quốc tế. Các văn bản cần sớm được đề xuất sửa đổi như, Luật đất đai, Luật nhà ở, Luật đấu giá, Luật Phá sản, Luật đăng ký tài sản, Nghị định về giao dịch bảo đảm. Ngoài ra, Bộ Tư pháp sớm phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan đến thực thi Bộ luật tố tụng dân sự 2014, Luật phá sản 2014 để đẩy nhanh việc giải quyết tranh chấp hợp đồng và giải quyết phá sản doanh nghiệp theo hướng đơn giản hóa thủ tục, quy trình và rút ngắn thời gian. Việc rà soát để đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản liên quan tới THADS sẽ tạo thuận lợi cho công tác thi hành án, rút ngắn thời gian thi hành án dân sự phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước
2.3. Nghiên cứu các biện pháp rút ngắn thời gian thi hành án dân sự
Quá trình hội nhập kinh tế của đất nước đòi hỏi những yêu cầu cao hơn rất nhiều về các điều kiện, tiêu chuẩn để phù hợp và đáp ứng với chuẩn mực quốc tế. Cùng với việc bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thi hành án cần góp phần tích cực bảo vệ quyền sở hữu tài sản của các nhà đầu tư, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển sản xuất, kinh doanh và phong trào khởi nghiệp của người dân và doanh nghiệp.
Một trong các nhiệm vụ mà Chính phủ đã giao cho các cơ quan tư pháp trong đó có hệ thống thi hành án dân sự tại Nghị quyết số 19 ngày 06/02/2017 đó là, nghiên cứu các biện pháp, cắt giảm quy trình để rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp hợp đồng từ 400 ngày xuống 300 ngày trong năm 2017 và dưới 200 ngày đến năm 2020; rút ngắn thời gian giải quyết phá sản doanh nghiệp từ 60 tháng xuống dưới 30 tháng trong năm 2017 và dưới 24 tháng đến năm 2020. Đến nay, mục tiêu mà Chính phủ giao cho cơ quan tòa án và THADS trong năm 2017 đã không thể đạt được. Trong khi đó, mục tiêu của năm 2020 vẫn đang là một thách thức lớn đối với hoạt động xét xử của các toà án nói chung và của hoạt động thi hành án dân sự của Bộ Tư pháp nói riêng. Trước tình hình đó, các cơ quan THADS cần tiếp tục thay đổi tư duy, nhận thức và hành động, nghiên cứu rút gọn thủ tục thi hành án, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác THADS, hành chính; phát triển các kênh tiếp nhận kiến nghị, phản ánh; tăng cường cơ chế đối thoại có hiệu quả giữa cơ quan THADS với người dân, doanh nghiệp nhằm nắm bắt và xử lý kịp thời các nhu cầu, nguyện vọng, vướng mắc liên quan để quyết tâm đạt được mục tiêu rút ngắn thời gian THADS xuống dưới 200 ngày đến năm 2020 để góp phần bảo đảm các chỉ tiêu về môi trường kinh doanh đạt trung bình của nhóm nước ASEAN 4 theo tinh thần Nghị quyết 19-2017/NQ-CP.
Để làm được điều này, trước mắt hệ thống THADS cần tập trung triển khai thực hiện nghiêm túc Quyết định số 252/QĐ-BTP ngày 28/02/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch hành động của Bộ Tư pháp thực hiện Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP của Chính phủ. Theo đó, tăng cường quán triệt, tuyên truyền nhằm tạo chuyển biến cơ bản trong nhận thức của đội ngũ công chức thi hành án về tinh thần phục vụ người dân và doanh nghiệp; tăng cường việc hỗ trợ trực tuyến thi hành án; việc thực hiện cơ chế một cửa và việc tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích được thực hiện tại các cơ quan thi hành án trên toàn quốc, qua đó giúp người dân tiếp cận thuận lợi hơn với cơ quan thi hành án; rà soát quy trình thi hành án dân sự, nghiên cứu rút ngắn, bãi bỏ một số bước không cần thiết; cải cách thủ tục hành chính trong công tác THADS; ứng dụng công nghệ thông tin.
2.4. Nâng cao năng lực cho đội ngũ công chức, viên chức, chấp hành viên, thẩm tra viên, người làm công tác thi hành án dân sự
Cùng với quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu vào mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội với thế giới thì việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực luôn là vấn đề hết sức quan trọng để đáp ứng yêu cầu công việc nói chung và đặc biệt là để đáp ứng các yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế nói riêng. Thực tiễn những năm qua, nguồn nhân lực công tác thi hành án dân sự đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, đội ngũ cán bộ công chức ngày càng được đào tạo bài bản; chuyên môn nghiệp vụ ngày càng được nâng cao… Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế như hiện nay, việc nâng cao năng lực cho đội ngũ công chức THADS để đáp ứng năng lực và khả năng gánh vác nhiệm vụ là một yêu cầu cấp thiết. Có thể nói, để thực sự hòa nhập được với quốc tế, thì những công chức yếu kém, không đủ khả năng để "vận hành cỗ máy hiện đại" theo đúng các nguyên tắc của nó, sẽ là cản trở lớn cho sự phát triển của ngành[8].
Vì vậy, để thực hiện được các yêu cầu nhiệm vụ mới trong bối cảnh hội nhập, đòi hỏi các chấp hành viên, người làm công tác thi hành án dân sự không chỉ am hiểu pháp luật quốc gia mà còn am hiểu pháp luật quốc tế cũng như các quy trình, thủ tục về tương trợ tư pháp được quy định trong các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam là thành viên. Tiêu chuẩn về chuyên môn phải đủ rộng, sâu, có khả năng xử lý và giải quyết các vấn đề trong tình hình mới; trình độ ngoại ngữ, tin học, quản lý nhà nước, lý luận chính trị cũng cần phải được chú trọng. Trong đó, cần chú trọng đến tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức để luôn đảm bảo vững vàng trong thực hiện chuyên môn, nghiệp vụ, đảm bảo phục vụ người dân và doanh nghiệp;
Ngoài ra, bộ phận làm công tác hợp tác quốc tế ở Tổng cục cũng cần được tăng cường; cử tham gia đào tạo các khóa đào tạo về ngoại ngữ, kỹ năng lễ tân quan hệ quốc tế để đáp ứng được yêu cầu công việc về hợp tác quốc tế của Tổng cục và toàn hệ thống. 
3. Kết luận
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà nước ta đang xây dựng và hoàn thiện là nền kinh tế gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới. Việc thu hẹp khoảng cách về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam với các nền kinh tế trên thế giới là vấn đề hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Trong khu vực, hiện chúng ta còn thấp hơn giá trị trung bình của các quốc gia ASEAN 6, việc đạt giá trị của nhóm dẫn đầu ASEAN-4 còn là một thách thức lớn. Đây không chỉ là hình ảnh, vị thế quốc gia, mà còn là thế mạnh trong thu hút đầu tư, cạnh tranh của nền kinh tế, trong đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại, đầu tư quốc tế. Tín nhiệm quốc tế cao thì chi phí vốn của cả quốc gia và doanh nghiệp sẽ đều giảm, như vậy, kinh tế sẽ phát triển nhanh hơn, hấp dẫn hơn trong mắt nhà đầu tư nước ngoài.
 Trách nhiệm của thi hành án dân sự Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước nói chung và trước ngưỡng cửa ASEAN 4 còn rất nặng nề, đặc biệt là thu hẹp khoảng cách về thời gian thi hành bản án. Quan niệm truyền thống khuôn gọn hoạt động thi hành án vào duy nhất yêu cầu “bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật” đã khá chật hẹp bởi trong một Chính phủ kiến tạo, thi hành án dân sự đã trở thành một yếu tố quan trọng bảo đảm sự thông thoáng và tin cậy của môi trường đầu tư kinh doanh.[9]
Trách nhiệm của thi hành án trước yêu cầu hội nhập quốc tế là động lực quan trọng của nền kinh tế. Để làm được điều này các cơ quan thi hành án dân sự cần tiếp tục tổ chức nghiên cứu và triển khai hiệu quả những chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Chính phủ trong hoạt động thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và Xây dựng kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế, Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày 06/02/2017 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020.
Lê Thị Thu Hiến, Phó Chánh Văn phòng Tổng cục THADS
 

[1] Ths. Nguyễn Văn Nghĩa, vai trò của Thi hành án dân sự qua lăng lính của học giả quốc tế, http://baophapluat.vn/hoi-dap-phap-luat/vai-tro-cua-thi-hanh-an-dan-su-qua-lang-kinh-cua-cac-hoc-gia-quoc-te-345348.html

[2] Tlđd

[3] Tính đến ngày 30/62018, Việt Nam đã ký 17 Hiệp định Tương trợ tư pháp với các quốc gia và vùng lãnh thổ, gồm:  Tiệp Khắc (Séc và Slovakia kế thừa), Cuba, Hungari, Bugari, Ba Lan, Lào, Nga, Trung Quốc, Pháp, Ucraina, Mông Cổ, Belarut, CHDSND Triều Tiên, Angieri, Cadacxtan, Campuchia, Đài Loan.

[4] Báo cáo Tổng kết Tương trợ tư pháp 2015, http://moj.gov.vn/tttp/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=54

[5] Điều 9 Pháp lệnh về Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2000; Điều 28 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 (sẽ có hiệu lực từ 01/01/2015)

[6] Ví dụ, Hiệp định Tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Hunggari năm 1987 quy định: “ Điều 4. Phạm vi tương trợ tư pháp: 1. Tương trợ tư pháp bao gồm việc thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt như việc khám nhà, tạm giữ, tịch biên tài sản, việc gửi các chứng cứ, lấy lời khai của những người làm chứng, người giám định và những người khác, xét hỏi bị can, xem xét tại chỗ, yêu cầu tống đạt, gửi các tài liệu cũng như lập và gửi các giấy tờ; 2. Tương trợ tư pháp bao gồm cả việc xác minh địa chỉ của một người cư trú trên lãnh thổ nước ký kết này bị người thường trú hoặc tạm trú trên lãnh thổ nước ký kết kia kiện về các vấn đề dân sự hay gia đình. Ngoài ra còn bao gồm cả việc xác minh nơi làm việc và thu nhập của một người bị người ta đòi tiền nuôi dưỡng. Để thuận lợi cho việc giải quyết các yêu cầu trên đây, nước ký kết yêu cầu phải thông báo tất cả tài liệu mình có cho nước ký kết kia biết.”

[7] Tưởng Duy Lượng - Nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, “Nâng cao hiệu quả thi hành án kinh doanh, thương mại là yêu cầu cấp thiết trong xu thế hội nhập, nhìn từ góc độ xét xử”, trang 2. Tài liệu Hội thảo “Thực tiễn và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, TPHCM 21-22/5/2018
 

[8] Dương Lan, Nâng cao năng lực cho đội ngũ công chức thi hành án dân sự để thực hiện có hiệu quả Luật Thi hành án dân sự, http://bttp.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/tin-su-kien.aspx?ItemID=253

 [9] Ths.Nguyễn Xuân Tùng, Rút ngắn thời gian thi hành án: Góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, http://baophapluat.vn/tu-phap/rut-ngan-thoi-gian-thi-hanh-an-gop-phan-cai-thien-moi-truong-dau-tu-kinh-doanh-337292.html