Bản án số 27/2005/DSST ngày 29/6/2005 của Tòa án nhân dân quận HK, thành phố H đã xét xử, quyết định: Hủy hợp đồng mua bán nhà số 66 Nguyễn Khiết giữa chị Mai Thị H và chị Nguyễn Thị N; Nhà 66 Nguyễn Khiết vẫn thuộc sở hữu của ông Mai Văn N đã chết năm 2001. Các thừa kế của ông N được quản lý căn nhà trên. Chị H trả chị N 250 triệu tiền mua nhà…
Theo nội dung bản án, ông Mai Văn N chết để lại 04 người con gồm: Bà Mai Thị N, bà Mai Thị M (bà M bị tâm thần có con là Mai Thị H), ông Mai Văn T, ông Mai Mạnh H (đã mất còn con gái là Mai Lan H). Bà N là một trong các đồng thừa kế của ông Mai Văn N, đồng thời là nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà 66 Nguyễn Khiết giữa chị Mai Thị H (von gái bà Mai Thị M, đồng thừa kế cùng hàng thừa kế với bà N) với chị Nguyễn Thị N (Người mua nhà). Quá trình giải quyết vụ kiện, ngoài yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà, bà N còn đề nghị xin được hưởng di sản bằng ¼ giá trị căn nhà số 66 Nguyễn Khiết. Tuy nhiên, do nhận định còn có thể có sự tranh chấp về số người được hưởng thừa kế, cũng như một số thừa kế thế vị chưa thể hiện ý chí, nguyện vọng nên Tòa án nhân dân quận HK không giải quyết việc chia di sản mà chỉ giải quyết tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng, Tòa án dành quyền khởi kiện, giải quyết chia thừa kế bằng một vụ án khác nếu các đương sự có yêu cầu.
Sau khi Bản án số 27/2005/DSST nêu trên có hiệu lực pháp luật, bà Mai Thị N là một trong các đồng thừa kế của ông Mai Văn N có đơn yêu cầu thi hành án với nội dung: yêu cầu Cơ quan Thi hành án quận HK thụ lý giải quyết và yêu cầu buộc chị Nguyễn Thị N phải giao nhà 66 Nguyễn Khiết cho chúng tôi theo như quyết định của bản án...”
Giải quyết đơn yêu cầu thi hành án của bà N, cơ quan Thi hành án dân sự quận HK có văn bản trả lời đơn của bà Mai Thị N với nội dung: yêu cầu thi hành án của bà N không có trong nội dung quyết định của Bản án số 27/2005/DSST ngày 29/6/2005 của Tòa án nhân dân quận HK và bản án không tuyên nghĩa vụ chị N phải trả nhà, do vậy Cơ quan Thi hành án dân sự không thụ lý thi hành án đối với phần yêu cầu như trong đơn đề nghị của bà N.
Đối với quyết định của bản án nêu trên Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự có ra quyết định thi hành án được hay không, hiện nay có rất nhiều quan điểm:
Thứ nhất, tại điểm a Khoản 1 Điều 2 Luật Thi hành án dân sự quy định: Những bản án, quyết định được thi hành theo Luật này bao gồm:
1. Bản án, quyết định quy định tại Điều 1 của Luật này đã có hiệu lực pháp luật:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Tại Khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự quy định: Ngoài các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều này, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự chỉ ra quyết định thi hành án khi có đơn yêu cầu thi hành án.
Theo quy định trên, bà N là một trong các đồng thừa kế nên có quyền làm đơn yêu cầu thi hành án để được quản lý căn nhà 66 Nguyễn Khiết và Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án khi nhận được đơn yêu cầu thi hành án của bà N.
Thứ hai, quyết định của bản án tuyên hủy hợp đồng mua bán nhà, Tòa chỉ xác định quyền sở hữu nhà 66 Nguyễn Khiết vẫn thuộc quyền sở hữu của ông Mai Văn N, và các thừa kế của ông N được quyền quản lý mà không tuyên cụ thể người phải thi hành án chị Nguyễn Thị N, không buộc chị N phải giao nhà 66 Nguyễn Khiết cho các đồng thừa kế hoặc cho một trong các đồng thừa kế đại diện quản lý; quyết định của bản án cũng không nêu rõ các đồng thừa kế của ông Mai Văn N là bà Mai Thị N, bà Mai Thị M (bà M bị tâm thần có con là Mai Thị H), ông Mai Văn T, ông Mai Mạnh H (đã mất còn con gái là Mai Lan H). Do vậy, nội dung bà N yêu cầu tổ chức thi hành khoản buộc chị N phải trả nhà 66 Nguyễn Khiết cho chị em bà là nằm ngoài phạm vi quyết định bản án, không đảm bảo căn cứ pháp lý theo quy định. Do đó, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự không có cơ sở để ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu thi hành án của bà N.
Về trách nhiệm của cơ quan Thi hành án dân sự trong việc kiến nghị với Tòa án có thẩm quyền xem xét lại bản án tuyên không rõ, khó thi hành, thậm chí không ra được quyết định thi hành án nêu trên.
Vụ việc này, Cục Thi hành án dân sự thành phố H có văn bản gửi Tòa án nhân dân quận HK về việc không thi hành được Bản án số 27/2005/DSS ngày 29/6/2005 của Tòa án nhân dân quận HK. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân quận HK lại có văn bản trả lời với nội dung: ...Bản án số 27/2005/DSST ngày 29/6/2005 của Tòa án nhân dân quận HK không có kháng cáo, kháng nghị hoặc khiếu nại theo trình tự giám đốc thẩm, đến nay bản án đã có hiệu lực pháp luật ...
Tiếp đó, Cục Thi hành án dân sự thành phố H và Ủy ban nhân dân quận HK đã có văn bản đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân thành phố H trả lời, kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án nhưng đến nay vẫn chưa nhận được ý kiến trả lời.
Tác giả cho rằng, đối với bản án không xác định cụ thể người phải thi hành án và những người thừa kế có quyền liên đới quản lý di sản nêu trên thì Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự chưa ra được quyết định thi hành án.
Câu hỏi lớn đặt ra là việc bản án trên có thi hành được hay không thuộc về trách nhiệm của cơ quan Thi hành án dân sự, Tòa án hay người có quyền và lợi ích hợp pháp như bà N phải tìm “Lối đi” khác tiếp tục khởi kiên bằng vụ kiện khác?
Nguyễn Thị Thu Hằng
Vụ GQKNTC