Triển khai Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa XII) trong công tác thi hành án dân sự

13/04/2018


1. Thi hành án dân sự là yếu tố quan trọng góp phần vào quá trình hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành T.Ư Đảng (khóa XII)  đã khẳng định nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng và hoàn thiện là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế, có môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, mức độ minh bạch, ổn định cao, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản được tôn trọng và bảo vệ hiệu quả, phù hợp với thông lệ, nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế phổ biến. Nghị quyết lần đầu tiên cũng trực tiếp khẳng định thi hành án dân sự (THADS) là một trong các hoạt động, lĩnh vực cần tập trung triển khai thực hiện để góp phần vào quá trình hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN.
Trong nền KTTT định hướng XHCN, quyền sở hữu luôn là một chế định trung tâm và là "trái tim" của mỗi nền kinh tế, bởi nó góp phần tạo dựng môi trường ổn định, an toàn, thúc đẩy các giao dịch dân sự, kinh doanh và thương mại. Vì vậy, hoàn thiện thể chế về sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân; về đất đai, tài nguyên, sở hữu trí tuệ, đầu tư vốn Nhà nước; về đăng ký và giao dịch tài sản minh bạch, liên thông, dễ tiếp cận... là những nội dung then chốt, tạo cơ chế pháp lý vững chắc, ổn định, bảo đảm hiệu lực thực thi của quyền sở hữu tài sản cũng như sự vận hành thông suốt của nền kinh tế.
Để phát triển sản xuất kinh doanh, mỗi nền kinh tế phải tạo lập một môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, ổn định và có tính tin cậy cao. Trong môi trường đó, ổn định xã hội là điều kiện tiên quyết, có tính chất quyết định để có thể triển khai đồng bộ, toàn diện các giải pháp phát triển kinh tế khác. Nhà nước phải bảo đảm thượng tôn pháp luật, các nguyên tắc pháp quyền, thúc đẩy đồng thuận xã hội, phòng chống tội phạm hiệu quả, xét xử công bằng các tranh chấp và thi hành nghiêm túc các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Nói cách khác, nhiệm vụ đầu tiên của THADS là phải góp phần bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tạo nền tảng ổn định vững chắc để phát triển các quan hệ kinh tế.
Để kiến tạo môi trường đầu tư kinh doanh phát triển, Nhà nước cần triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Trong đó, THADS phải góp phần tập trung giải phóng những nguồn lực kinh tế “mất giá trị tạm thời” do bị kê biên, phong tỏa, “đóng băng” trong các tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại mà hàng năm trị giá lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng. Đồng thời, phải chú trọng đẩy mạnh xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, góp phần lành mạnh hóa nền kinh tế, giảm lãi suất cho vay, khơi thông dòng chảy tài chính phục vụ phát triển kinh tế.
Với tỷ trọng 39-40% GDP, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh ngày càng cao, phạm vi hoạt động rộng và đa dạng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực và vùng, miền, kinh tế tư nhân đang đóng góp ngày càng to lớn cho sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết Trung ương V khóa XII vừa qua khẳng định phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế là một yêu cầu khách quan, cấp thiết và lâu dài. Đây cũng chính là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất, huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội. Do đó, Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII khẳng định phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN. Phát triển kinh tế tư nhân yêu cầu Nhà nước khẩn trương hoàn thiện thể chế bảo vệ các nhà đầu tư, trong đó, trọng tâm là hoàn thiện thể chế về sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu tài sản. Các quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư phải được tôn trọng và bảo đảm hiệu lực thực thi. Không hình sự hóa các mối quan hệ kinh tế và dân sự. Các quy định về đăng ký và giao dịch tài sản, nhất là bất động sản, phải tiếp tục được phát triển theo hướng minh bạch, liên thông, dễ tiếp cận, bảo đảm cho các quyền tài sản được giao dịch thông suốt, không rơi vào trạng thái ách tắc, trì trệ. Các dịch vụ hành chính công phải được hiện đại hóa để tiết kiệm thời gian, chi phí, không tạo gánh nặng tâm lý đối với người dân và doanh nghiệp.
Trong nền KTTT định hướng XHCN, thực thi và bảo vệ hiệu quả quyền sở hữu tài sản là một yếu tố quan trọng mang lại niềm tin cho các nhà đầu tư. Một doanh nghiệp nước ngoài khi đến Việt Nam tìm hiểu để đầu tư, làm ăn thường hỏi các công ty tư vấn luật địa phương về hiệu lực, hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu tài sản; trường hợp xảy ra tranh chấp, họ sẽ phải mất bao nhiêu thời gian và chi phí để có thể thu hồi thành công tài sản, đồng vốn? Trong trường hợp phá sản thì thời gian, tỷ lệ thu hồi tài sản là bao nhiêu để tiếp tục tái đầu tư, sản xuất? Đây chính là những tiêu chí quan trọng để đánh giá môi trường đầu tư, kinh doanh, mức độ tín nhiệm cũng như sự hoàn bị của cơ chế thị trường của mỗi nền kinh tế. Vì vậy, pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp dân sự phải được hoàn thiện theo hướng thống nhất, đồng bộ; các thiết chế giải quyết tranh chấp dân sự, trong đó có thi hành án, phải được đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả với các quy trình, thủ tục đơn giản, công khai, minh bạch để kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp. Thời gian giải quyết tranh chấp, trong đó có thời gian THADS phải được rút gọn. Như vậy, THADS còn được xác định là công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản trong phá sản, góp phần cải thiện môi trường sản xuất, kinh doanh, thu hút các nhà đầu tư và khuyến khích phong trào khởi nghiệp.
2. Rút ngắn thời gian THADS để góp phần nâng cao mức độ tín nhiệm của nền kinh tế hướng tới mục tiêu ASEAN 4
2.1. “Doing Business” là báo cáo đánh giá thường niên của Ngân hàng Thế giới (World Bank) về những quy định thúc đẩy hoặc cản trở hoạt động đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực kinh tế tư nhân của 190 nền kinh tế thế giới thông qua 11 lĩnh vực của đời sống kinh doanh. Trong 11 lĩnh vực đánh giá của Báo cáo, có 10 lĩnh vực liên quan đến xếp hạng thông thoáng môi trường đầu tư kinh doanh (Ease of doing business ranking), bao gồm: Khởi sự kinh doanh (Starting a business), Cấp phép xây dựng (Dealing with contruction permits), Bảo đảm điện năng (Getting electricity), Đăng ký tài sản (Registering Property), Bảo đảm tín dụng (Getting credit), Bảo vệ các nhà đầu tư thiểu số (Protecting minority investors), Đóng thuế (Paying taxes), Giao dịch thương mại qua biên giới (Trading across borders), Giải quyết tranh chấp hợp đồng (Enforcing contracts) và Giải quyết phá sản (Resolving insolvency).
Như vậy, cùng với các yếu tố khác như khởi sự kinh doanh, tín dụng, xây dựng, đăng ký sở hữu, thuế, bảo hiểm, điện năng, cấp thoát nước, thông quan hàng hóa thì hiệu lực thi hành bản án là một tiêu chí hết sức quan trọng cho sự tín nhiệm của mỗi nền kinh tế. “Công lý chậm trễ là công lý bất công”. Một nền kinh tế có hệ thống tư pháp hiệu lực với các thiết chế đủ năng lực bảo đảm việc thực thi các nghĩa vụ hợp đồng sẽ bảo vệ các quyền tài sản, thúc đẩy mạnh mẽ các thị trường tín dụng và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tương tự, một cơ chế phá sản hiệu quả, nhanh và tiết kiệm sẽ giúp tái phân phối các nguồn lực, rút ngắn thời gian thu hồi tài sản, tiền vốn và sớm đưa các nhà đầu tư trở lại sản xuất, kinh doanh bình thường.
+ Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới, chỉ số “Giải quyết tranh chấp hợp đồng” của Việt Nam xếp hạng 69/190 nền kinh tế thế giới. Thời gian giải quyết tranh chấp của các tòa án tại Việt Nam năm 2016 là 400 ngày, trong đó thụ lý của tòa án là 50 ngày, xét xử và phán quyết là 200 ngày và thời gian thực thi phán quyết của tòa án là 150 ngày; với chi phí 29% giá trị tài sản tranh chấp, trong đó chi phí luật sư chiếm 21%, án phí chiếm 5% và phí thi hành án là 3%. Tuy nhiên, thứ hạng thời gian thực thi phán quyết của tòa án tại Việt Nam trong khối các quốc gia ASEAN còn khá khiêm tốn, đứng thứ 6/10 và nhiều năm qua chưa có sự cải thiện đáng kể.Thứ hạng thời gian thực thi phán quyết của tòa án tại Việt Nam trong khối các quốc gia ASEAN như sau:
Singapore: 40 ngày
Brunei: 90 ngày
Thái Lan: 120 ngày 
Malaysia: 120 ngày 
Lào: 135 ngày
Việt Nam: 150 ngày
Campuchia: 170 ngày
 Indonesia: 180 ngày
Myanmar: 180 ngày
Philipines: 204 ngày.
+ Một hệ thống phá sản thiết thực sẽ có chức năng như bộ lọc bảo đảm việc duy trì các công ty có hiệu quả kinh tế và tái phân phối các nguồn lực đối với các công ty hoạt động thiếu hiệu quả. Thủ tục phá sản nhanh và tiết kiệm sẽ nhanh chóng mang các hoạt động đầu tư kinh doanh quay trở lại bình thường và tăng tiền thu hồi cho các nhà đầu tư.Hiệu quả phá sản doanh nghiệp của Việt Nam hiện xếp hạng 125/190 nền kinh tế thế giới và xếp hạng 8/10 trong khối ASEAN với thời gian phá sản kéo dài đến 60 tháng (05 năm), cụ thể:
(Xếp theo thứ tự thứ hạng giải quyết phá sản)
Quốc gia Trong đó
Tỷ lệ thu hồi Thời gian Chi phí Kết quả Khung phá sản
Thailand (23) 67.7 1.5 18 1 13.0
Singapore (29) 88.7 0.8 4 1 8.5
Malaysia (46) 81.3 1.0 10 1 6.0
Philipines (56) 21.3 2.7 32 0 14
Brunei (57) 47.2 2.5 3.5 0 9.5
Cambodia (72) 13.9 6 18 0 13
Indonesia (76) 29.9 2.0 22 0 9.5
Vietnam (125) 21.6 5 14.5 0 7.5
Myanmar (164) 14.7 5 18 0 4
Lao PDR (169) 0 Không có thông tin Không có thông tin Không có thông tin 0
2.2. Trong bối cảnh nền kinh tế đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá và xếp hạng ở mức thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực, ở mức trung bình thấp so với các nước ASEAN, liên tục trong các năm vừa qua Chính phủ đã ban hành 04 Nghị quyết số 19 (ngày 18/3/2014, ngày 12/3/2015, ngày 28/4/2016 và ngày 06/02/2017) về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Theo đánh giá của Chính phủ, trong 3 năm thực hiện Nghị quyết 19, các Bộ, ngành, địa phương có nhiều chuyển biến tích cực. Việt Nam đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, môi trường kinh doanh tăng 9 bậc (từ vị trí 91/189 lên 82/190) với 5 chỉ số tăng hạng, cụ thể là: (1) Bảo vệ nhà đầu tư nhờ Luật Doanh nghiệp năm 2014 tăng 31 bậc; (2) Giao dịch thương mại qua biên giới nhờ thực hiện hải quan điện tử và nâng cao hiệu quả quản lý chuyên ngành tăng 15 bậc; (3) Nộp thuế và bảo hiểm xã hội nhờ thời gian được rút ngắn 230 giờ (từ 770 giờ xuống còn 540 giờ) tăng 11 bậc; (4) Tiếp cận điện năng cải thiện 5 bậc do thời gian rút ngắn từ 59 xuống 46 ngày và giảm từ 6 thủ tục xuống còn 5 thủ tục; (5) Giải quyết phá sản tăng 1 bậc nhưng không nhờ cải cách. Tuy nhiên, bên cạnh 5/10 chỉ số tăng hạng, 5 chỉ số khác của Việt Nam lại giảm bậc, cụ thể là: (1) Khởi sự kinh doanh giảm 10 bậc; (2, 3) Cấp phép xây dựng và tiếp cận tín dụng giảm 3 bậc; (4, 5) Đăng ký sở hữu tài sản, Giải quyết tranh chấp hợp đồng giảm 1 bậc…
Ngày 06/2/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP Về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020, trong đó, tiếp tục khẳng định mục tiêu đến hết năm 2017, các chỉ tiêu về môi trường kinh doanh đạt trung bình của nhóm nước ASEAN 4. Từ đó, Nghị quyết yêu cầu bám sát tiêu chí đánh giá của Ngân hàng thế giới; củng cố và duy trì kết quả đạt được về môi trường kinh doanh, đồng thời phấn đấu nâng điểm trên tất cả các chỉ tiêu, trong đó Nghị quyết kiến nghị các cơ quan tư pháp và hệ thống THADS cần tập trung rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp hợp đồng từ 400 ngày xuống 300 ngày trong năm 2017 và dưới 200 ngày đến năm 2020; rút ngắn thời gian giải quyết phá sản doanh nghiệp từ 60 tháng xuống dưới 30 tháng trong năm 2017 và dưới 24 tháng đến năm 2020.
3. Phương pháp tính thời gian THADS và hiệu quả phá sản
3.1. Phương pháp tính thời gian THADS
- Vụ việc giả thiết: Ngân hàng thế giới tính toán thời gian thực thi phán quyết của Toà án thông qua một vụ việc giả thiết với các dữ liệu cụ thể sau:
“Hai công ty cùng là công ty trong nước là Bên bán và Bên mua trong một thương vụ, đi đến ký kết một hợp đồng mua bán một số hàng theo đặt hàng riêng của Bên mua. Bên bán đồng ý bán cho Bên mua và Bên mua đồng ý mua số hàng của Bên bán. Tuy nhiên, sau khi chuyển hàng đến, Bên mua cho rằng số hàng đó không đạt chất lượng và từ chối trả tiền. Bên bán khẳng định số hàng đó là đạt chất lượng và yêu cầu Bên mua trả số tiền theo giá hợp đồng. Do số hàng được sản xuất theo đặt hàng riêng của Bên mua nên Bên bán không thể bán chúng cho Bên thứ ba. Do Bên mua từ chối trả tiền, Bên bán khởi kiện Bên mua. Toà án phán quyết Bên bán đúng 100% và yêu cầu Bên mua phải trả tiền theo giá hợp đồng.
1. Cả Bên bán và Bên mua đều là các công ty trong nước, đặt trụ sở tại một “Thành phố được khảo sát”. Tại Việt Nam “Thành phố được khảo sát” là thành phố Hồ Chí Minh (cấp tỉnh và cấp huyện).
2. Bên bán khởi kiện Bên mua để lấy lại được giá trị theo hợp đồng.
3. Toà án phán quyết vụ việc đặt trụ sở tại một “Thành phố được khảo sát” và là toà cấp sơ thẩm có thẩm quyền đối với vụ kiện thương mại đó.
4. Bên bán lo ngại rằng Bên mua có thể tẩu tán tài sản trả nợ, hoặc tìm cách đưa tài sản này không còn là đối tượng của vụ kiện hoặc đưa vào trạng thái phá sản. Do đó, Bên bán yêu cầu và có được lệnh tịch biên của toà án có thẩm quyền đối với các tài sản là động sản của Bên mua như xe cộ hay các thiết bị văn phòng trước khi có được phán quyết của toà án.
5. Bên mua phản đối yêu cầu của Bên bán. Vụ việc tranh chấp được toà án giải quyết. Trong quá trình tố tụng, một chuyên gia thẩm định được yêu cầu đưa ra ý kiến đánh giá chất lượng hàng hoá được phân phối của Bên bán: (a) Trường hợp quy chuẩn của quốc gia đó cho phép Bên bán và Bên mua mời chuyên gia thẩm định làm chứng, mỗi bên sẽ mời một chuyên gia đưa ra ý kiến về chất lượng số hàng được cung cấp bởi Bên bán; (b) Trường hợp quy chuẩn của quốc gia cho phép thẩm phán chỉ định một chuyên gia độc lập đưa ra ý kiến về chất lượng số hàng được cung cấp bởi Bên bán và thẩm phán tiến hành thủ tục đó.
Giả thuyết vụ việc cho rằng không có ý kiến phản đối ý kiến chuyên gia.
1. Phán quyết của toà án 100% ủng hộ cho Bên bán. Bên mua bị yêu cầu trả lại giá trị theo đơn giá hợp đồng cho Bên mua.
2. Bên mua không kháng cáo đối với phán quyết.
3. Bên bán khởi động các thủ tục thi hành bản án ngay sau khi thời hạn kháng cáo kết thúc. Giả thiết vụ việc cho rằng Bên mua không có tiền trong tài khoản ngân hàng. Do đó, các tài sản là động sản của Bên mua (xe cộ và trang thiết bị văn phòng) bị kê biên, cất giữ để chuẩn bị đấu giá.
4. Phiên đấu giá tài sản kê biên của Bên mua được tổ chức. Các tài sản được bán và khoản nợ được thu hồi lại toàn bộ cho Người bán”.
- Bảng hỏi
Với vụ việc giả thiết nêu trên, Ngân hàng thế giới đánh giá thời gian thực thi bản án thông qua một Bảng hỏi. Theo đó, giai đoạn thi hành phán quyết của toà án đo lường thời gian mà bên thắng kiện thu hồi được giá trị theo hợp đồng đã ký kết, bao gồm các giai đoạn:
(1) Khởi động thủ tục thi hành phán quyết,
(2) Kê biên tài sản là động sản của bên thua kiện,
(3) Tổ chức phiên đấu giá tài sản kê biên,
(4) Thu hồi khoản nợ.
Các câu hỏi của Bảng hỏi bao gồm:
Câu 1: Trong thực tế phải mất thời gian bao lâu để đương sự được cấp một bản án, quyết định của Toà án làm căn cứ để đề nghị thi hành án và mất bao lâu để có thể liên hệ được với cơ quan thi hành án?
Câu 2: Trong thực tế phải mất bao lâu để có thể xác định và kê biên được tài sản là động sản của bên phải thi hành án?
Câu 3: Trong thực tế phải mất bao lâu để có thể tổ chức được phiên đấu giá tài sản của người phải thi hành án?
Câu 4: Trong thực tế thông thường có cần trên một phiên đấu giá để có thể thu hồi được khoản nợ không, khoảng cách giữa các phiên đấu giá là bao nhiêu ngày?
Câu 5: Sau khi phiên đấu giá được hoàn tất, phải mất bao lâu để người được thi hành án thu hồi được khoản nợ?
Câu 6: Các nguyên nhân chính trì hoãn giai đoạn này:
- Kê biên tài sản.
- Tổ chức phiên đấu giá.
- Chờ đợi phiên đấu giá công khai được tổ chức.
- Tìm người mua tài sản.
- Nguyên nhân khác.
3.2. Phương pháp đánh giá hiệu quả phá sản
Tiêu chí giải quyết phá sản doanh nghiệp được đo lường qua các chỉ báo: (1) Thời gian thu hồi khoản nợ (tính theo năm); (2) Chi phí thu hồi khoản nợ (theo tỷ lệ % tài sản con nợ); (3) Kết quả phá sản, việc kinh doanh có tiếp tục được duy trì như mục đích ban đầu của tài sản hay phải bán từng phần (từ 0 đến 1), (4) Tỷ lệ thu hồi của các nhà đầu tư (tính theo đơn vị cent trên mỗi dollar), (5) Sự vững chắc của các quy định phá sản  với tổng thang điểm là 16, gồm các yếu tố: Thụ lý giải quyết vụ việc, Quản lý tài sản của con nợ, Quá trình tổ chức lại hoạt động kinh doanh, và Sự tham gia của chủ nợ.
3.3. Thu thập số liệu
 Số liệu trong Báo cáo của Ngân hàng thế giới được thu thập từ bốn nguồn thông tin:
- Một là các quy định pháp luật có liên quan điều chỉnh hoạt động được đánh giá.
- Hai là là thông tin từ các cộng tác viên xây dựng Báo cáo (Ngân hàng thế giới hiện đang có 39.000 cộng tác viên hoạt động tại 190 nền kinh tế).
- Ba là thông tin từ chính phủ của các nền kinh tế.
- Bốn là thông tin từ các nhân viên của Ngân hàng thế giới đóng tại khu vực.
Hàng năm, từ tháng 11 năm trước cho đến tháng 01 năm sau, Ngân hàng thế giới tiến hành rà soát và chỉnh lý, hoàn thiện Bảng hỏi, từ tháng 2 cho đến tháng 8 tập trung thu thập và phân tích số liệu. Trong giai đoạn này, Ngân hàng thế giới sẽ phân phát Bảng hỏi đồng thời phân tích các quy định pháp luật về hoạt động được đánh giá, đồng thời có thể phỏng vấn, tham vấn các cơ quan chính phủ hoặc các chuyên gia độc lập về vấn đề đánh giá để đối chiếu, làm rõ thông tin. Trong tháng 9 và tháng 10, Ngân hàng thế giới tiến hành công bố Báo cáo.
Trong lĩnh vực thực thi phán quyết của toà án, cùng với phân tích các quy định của pháp luật liên quan, chỉ số về thời gian được đánh giá chủ yếu theo quãng thời gian thực tế thi hành theo ý kiến của các cộng tác viên tại địa phương. Tại Việt Nam, năm 2016, các cộng tác viên địa phương đến từ nhiều công ty luật như: Baker & Mc Kenzie, YKVN, Honor Partnership Law Company Limited, Biz Consult Law Firm, VietBid Law Firm, Aliat Legal, Rajah & Tann LCT Lawyers, LuatViet Advocate & Solicitor, VB Law, CSB Legal LCC, LVN and Associates…/.
4. Triển khai Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa XII) trong hoạt động THADS
Nền KTTT định hướng XHCN mà đất nước ta đang hoàn thiện là nền kinh tế gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới. Việc thu hẹp khoảng cách về năng lực cạnh tranh của khu vực kinh tế tư nhân so với các nền kinh tế trên thế giới là vấn đề hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Trong khu vực, hiện chúng ta còn thấp hơn giá trị trung bình của các quốc gia ASEAN 6, việc đạt giá trị của nhóm dẫn đầu ASEAN-4 còn là một thách thức lớn. Đây không chỉ là hình ảnh, vị thế quốc gia, mà còn là thế mạnh trong thu hút đầu tư, cạnh tranh của nền kinh tế, trong đàm phán các cam kết thương mại quốc tế. Tín nhiệm quốc tế cao thì chi phí vốn của cả quốc gia và doanh nghiệp sẽ đều giảm, như vậy, kinh tế sẽ phát triển nhanh hơn, hấp dẫn hơn trong mắt nhà đầu tư nước ngoài. Với mục tiêu thu hẹp khoảng cách về năng lực cạnh tranh của khu vực kinh tế tư nhân so với nhóm dẫn đầu ASEAN-4, trong khi xây dựng các giải pháp tổng thể, căn cơ, lâu dài, Hệ thống THADS cần khẩn trương tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, nghiêm túc tổ chức nghiên cứu, quán triệt yêu cầu của Nghị quyết trung ương V khóa XII và Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 03/10/2017 của Chính phủ Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, Chương trình hành động số 02-Ctr/BCS ngày 07/11/2017 của Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đối với công tác THADS; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo chuyển biến rõ nét trong nhận thức của đội ngũ công chức thi hành án về tinh thần phục vụ người dân, doanh nghiệp và yêu cầu, trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong việc góp phần đưa đất nước đạt mục tiêu ASEAN 4 theo lộ trình đã đề. Thay đổi tư duy, nhận thức tiếp cận theo thông lệ quốc tế chuẩn mực; vượt qua rào cản lợi ích cục bộ. Kiên quyết không chấp nhận thái độ thờ ơ, đối phó, trì trệ trong quá trình triển khai các mục tiêu, nhiệm vụ.
Hai là, nỗ lực rút ngắn thời gian thi hành bản án trong thực tiễn thông qua việc tập trung rà soát, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong từng khâu, từng bước của quá trình thi hành án từ thụ lý, xác minh điều kiện thi hành án, kê biên, định giá, đấu giá, cưỡng chế giao tài sản. Đẩy lùi tình tình nhũng nhiễu, tiêu cực. Các cơ quan THADS cũng cần đặc biệt chú trọng công tác hòa giải, thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án, đồng thời tăng cường phổ biến, tuyên truyền pháp luật thi hành án, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân, kịp thời định hướng dư luận xã hội có thái độ nghiêm khắc đối với những trường hợp trốn tránh, chây ỳ, chống đối, không chấp hành bản án. 
Ba là, tiếp tục nêu cao tinh thần phục vụ người dân và doanh nghiệp, bảo đảm ngày càng thực chất và sâu rộng, các thủ tục hành chính trong hoạt động THADS cũng như thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành được công bố, đăng tải đầy đủ trên Cổng, Trang thông tin điện tử THADS toàn quốc; thực hiện hiệu quả cơ chế một cửa, hỗ trợ trực tuyến mức độ 2 và tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích; phát triển và sử dụng hiệu quả “Đường dây nóng” để tiếp nhận các kiến nghị, phản ánh, thắc mắc, khiếu nại, tố cáo.
Nguyễn Xuân Tùng
Chánh Văn phòng Tổng cục THADS