Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội thông qua năm 2008, sửa đổi, bổ sung vào các năm 2014 và 2022. Sau gần 17 năm thi hành, Luật Thi hành án dân sự đã tạo khung pháp lý tương đối toàn diện cho công tác tổ chức thi hành án, góp phần bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, đặc biệt là khi đất nước bước vào giai đoạn chuyển đổi số mạnh mẽ, nhiều quy định của Luật cần được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung nhằm thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng và theo kịp thực tiễn.
Trong thời gian vừa qua, Bộ Tư pháp và Tổng cục Thi hành án dân sự (nay là Cục Quản lý Thi hành án dân sự) đã tích cực triển khai nhiều giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin, bước đầu hình thành nền tảng cho chuyển đổi số trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Hệ thống phần mềm quản lý thi hành án dân sự được áp dụng trên toàn quốc, giúp thống kê, báo cáo, theo dõi tiến độ, kết quả thi hành án tương đối kịp thời. Các cơ quan thi hành án dân sự địa phương đã xây dựng trang thông tin điện tử, thực hiện công khai danh sách người phải thi hành án, thông báo đấu giá tài sản và nhiều thủ tục khác được thông báo công khai trên trang thông tin điện tử, qua đó góp phần tăng cường minh bạch quá trình tổ chức thi hành án.
Một số thủ tục hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự đã được hỗ trợ trực tuyến; đối với thủ tục thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí được thực hiện trên Cổng Dịch vụ công quốc gia; việc gửi, nhận văn bản điện tử, hồ sơ điện tử giữa cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ chức khác được từng bước triển khai thực hiện. Trong công tác tài chính, đã triển khai cấp biên lai điện tử, bước đầu mang lại hiệu quả tích cực,…
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, tổng số việc và tiền phải thi hành còn cao; tỷ lệ việc chưa có điều kiện thi hành, nhất là về tiền, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số phải thi hành. Kết quả thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế, mặc dù có tiến bộ, nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Quy trình tổ chức thi hành án còn nhiều tầng nấc, thủ tục phức tạp, dẫn đến thời gian giải quyết kéo dài, tốn kém nguồn lực. Cơ chế phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với các cơ quan như công an, tòa án, viện kiểm sát, ngân hàng, cơ quan đăng ký tài sản… còn chưa thực sự hiệu quả; việc chia sẻ thông tin về tài sản, nhân thân đương sự chưa kịp thời, gây khó khăn trong xác minh và xử lý thi hành án. Bên cạnh đó, công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của hệ thống thi hành án dân sự vẫn chủ yếu dựa trên hồ sơ giấy; dữ liệu điện tử còn rời rạc, chưa hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất; Hạ tầng công nghệ thông tin của nhiều đơn vị còn thiếu đồng bộ; năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều; các hệ thống dữ liệu chưa được kết nối liên thông với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, đăng ký tài sản, doanh nghiệp; Việc sử dụng văn bản, hồ sơ điện tử chưa được thừa nhận giá trị pháp lý như hồ sơ giấy, dẫn đến tâm lý e ngại khi áp dụng; Nguồn kinh phí dành cho hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn hẹp, chưa đủ để bảo đảm an toàn, an ninh mạng;…
Trước những tồn tại, hạn chế đó, việc sửa đổi Luật Thi hành án dân sự là yêu cầu khách quan, nhằm thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, hoàn thiện thể chế và đặc biệt là Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật năm 2025 theo Nghị quyết số 129/2024/QH15 ngày 08/6/2024 của Quốc hội khóa XV và Nghị quyết số 75/2025/UBTVQH15 ngày 26/3/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến và thông qua tại kỳ họp thứ 10/2025. Trong đó, một số nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng liên quan đến việc sử dụng, ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số, hiện đại hóa hoạt động thi hành án dân sự có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định về bảo đảm nguồn lực cho ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số (Khoản 1 Điều 9 Dự thảo)
Khoản 1 Điều 9 khẳng định: Nhà nước bảo đảm biên chế, kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện cần thiết, đồng thời bảo đảm nguồn lực ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số cho cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự; xây dựng, quản lý, vận hành cơ sở dữ liệu thi hành án dân sự.
Đây là điều kiện tiên quyết để các quy định về ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số được thực hiện thực chất. Trong nhiều năm qua, hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống Thi hành án dân sự gặp khó khăn do thiếu kinh phí đầu tư hạ tầng, thiết bị, phần mềm, đào tạo nhân lực. Việc quy định cụ thể trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm nguồn lực giúp tránh tình trạng “có quy định nhưng không đủ điều kiện thực hiện”.
Thứ hai, bổ sung quy định cụ thể về ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong Thi hành án dân sự (Điều 5 Dự thảo)
Điều 5 Dự thảo quy định rõ về việc Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong hoạt động thi hành án dân sự. Bộ Tư pháp có trách nhiệm xây dựng, quản lý, vận hành cơ sở dữ liệu về thi hành án dân sự; bảo đảm kết nối, chia sẻ với các cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên ngành khác. Cơ quan, tổ chức được giao quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành có trách nhiệm kết nối, chia sẻ dữ liệu với cơ sở dữ liệu về thi hành án dân sự; thực hiện các yêu cầu của cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự về việc truy cập, khai thác thông tin từ cơ sở dữ liệu đó để phục vụ hoạt động thi hành án dân sự.
Đặc biệt, Điều luật cũng xác định rõ các văn bản, hồ sơ, thông tin liên quan đến Thi hành án dân sự được lập, ký số, gửi, nhận, lưu trữ, xử lý, chia sẻ bằng phương tiện điện tử có giá trị pháp lý như hồ sơ giấy. Các thủ tục thi hành án được thực hiện trên môi trường điện tử được công nhận về mặt pháp lý.
Đây là một trong những quy định quan trọng của dự thảo Luật, thể chế hóa chủ trương của Đảng về “xây dựng Chính phủ số, nền tư pháp số và công dân số”. Khi được thực thi, Điều 5 sẽ tạo hành lang pháp lý cho việc hình thành hệ sinh thái dữ liệu thi hành án dân sự thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Cơ quan Thi hành án dân sự có thể truy cập, tra cứu, xác minh thông tin nhanh chóng, chính xác; hạn chế tình trạng “xin – cho” dữ liệu hoặc chậm trễ trong việc cung cấp thông tin về tài sản, nhân thân đương sự.
Việc công nhận giá trị pháp lý của hồ sơ, văn bản điện tử giúp giảm chi phí hành chính, tiết kiệm thời gian, tăng khả năng lưu trữ, tra cứu, giám sát. Đồng thời, việc số hóa hồ sơ còn tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát nội bộ; giảm thiểu nguy cơ thất lạc, giả mạo, sửa chữa hồ sơ.
Điều 5 cũng mở ra cơ chế xã hội hóa trong phát triển các giải pháp công nghệ phục vụ thi hành án dân sự, khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp, tổ chức công nghệ trong việc thiết kế phần mềm, nền tảng số, qua đó nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả của hoạt động quản lý.
Thứ ba, đổi mới phương thức thông báo thi hành án qua phương tiện điện tử (Khoản 3 Điều 35 Dự thảo)
Dự thảo bổ sung hình thức thông báo trực tiếp bằng phương tiện điện tử bên cạnh các hình thức truyền thống như giao trực tiếp, niêm yết công khai, hoặc thông báo qua phương tiện thông tin đại chúng.
Quy định này phù hợp với bối cảnh xã hội hiện nay, khi việc sử dụng điện thoại thông minh, thư điện tử, các nền tảng mạng xã hội và ứng dụng trực tuyến đã trở nên phổ biến. Việc thông báo thi hành án qua phương tiện điện tử giúp tiết kiệm chi phí hành chính, rút ngắn thời gian xử lý, nhất là trong các vụ việc có đương sự ở nhiều địa phương hoặc có yếu tố nước ngoài.
Quan trọng hơn, hình thức thông báo điện tử có thể lưu vết điện tử, giúp cơ quan thi hành án dân sự chứng minh việc đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thông báo, hạn chế khiếu nại, tranh chấp phát sinh. Việc bổ sung hình thức này sẽ thúc đẩy tính minh bạch, công khai, tạo niềm tin cho đương sự và xã hội về hoạt động Thi hành án dân sự.
Thứ tư, sửa đổi quy định về phương thức thông báo thi hành án trong trường hợp đương sự ở nước ngoài (Điều 64 Dự thảo)
Điều 64 dự thảo quy định: khi không xác định được địa chỉ của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người nước ngoài hoặc công dân Việt Nam đang ở nước ngoài thì việc thông báo được thực hiện trên phương tiện điện tử.
Đây là một bổ sung rất kịp thời, phù hợp với xu thế hợp tác quốc tế và hội nhập sâu rộng. Trước đây, việc tống đạt, thông báo qua đường bưu chính hoặc kênh tương trợ tư pháp thường kéo dài, gây chậm trễ trong thi hành án. Với quy định mới, việc thông báo điện tử sẽ giúp tiết kiệm thời gian, chi phí, tăng khả năng tiếp cận của đương sự ở nước ngoài, đồng thời bảo đảm quyền được biết, quyền được tham gia của họ trong quá trình thi hành án.
Điều này cũng thể hiện sự chủ động của Việt Nam trong việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế về tương trợ tư pháp điện tử và quản trị tư pháp hiện đại.
Thứ năm, quy định cơ sở pháp lý rõ ràng về việc thực hiện thanh toán tiền thi hành án qua chuyển khoản (Khoản 6 Điều 54 Dự thảo)
Dự thảo quy định việc thanh toán tiền được thực hiện bằng hình thức chuyển khoản, trường hợp không thể chuyển khoản thì thanh toán trực tiếp hoặc hình thức khác theo quy định của Chính phủ. Việc thanh toán tiền qua hình thức chuyển khoản sẽ được Chính phủ quy định chi tiết. Cân nhắc theo hướng cơ quan Thi hành án dân sự sẽ cung cấp mã QR trên quyết định thi hành án, giấy báo nộp tiền để người phải thi hành án thực hiện dễ dàng và phù hợp với thực tế và nhu cầu hiện nay của xã hội.
Đây là bước tiến quan trọng hướng tới “thi hành án không tiền mặt”, góp phần hiện đại hóa hoạt động tài chính trong hệ thống thi hành án dân sự. Việc thanh toán qua ngân hàng giúp đảm bảo an toàn, giảm thiểu rủi ro thất thoát, sai sót; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, đặc biệt là trong các vụ việc lớn hoặc có nhiều bên tham gia.
Hình thức thanh toán không dùng tiền mặt cũng giúp cơ quan quản lý dễ dàng theo dõi, giám sát, kiểm soát dòng tiền, tránh tiêu cực. Khi được triển khai đồng bộ với hệ thống cơ sở dữ liệu tài chính công, quy định này sẽ tạo nền tảng cho việc tự động hóa quy trình thu – chi, hạch toán, quyết toán trong hoạt động thi hành án dân sự.
* Như vậy, nhìn tổng thể, các quy định sửa đổi, bổ sung nói trên sẽ tạo bước đột phá quan trọng trong tiến trình chuyển đổi số ngành thi hành án dân sự, hướng tới xây dựng hệ thống Thi hành án dân sự “hiện đại – minh bạch – hiệu quả”, cụ thể:
- Về quản lý nhà nước, cơ sở dữ liệu điện tử tập trung sẽ giúp cơ quan quản lý nắm bắt kịp thời tình hình thi hành án trên toàn quốc, phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành, thống kê, báo cáo nhanh, chính xác, góp phần phòng ngừa sai phạm, tiêu cực.
- Về nghiệp vụ thi hành án, việc kết nối dữ liệu giữa thi hành án dân sự với các cơ sở dữ liệu quốc gia như dân cư, đất đai, đăng ký tài sản, ngân hàng… sẽ rút ngắn thời gian xác minh điều kiện thi hành án, nâng cao khả năng thu hồi tài sản, nhất là trong các vụ án tham nhũng, kinh tế.
- Về người dân và doanh nghiệp, các thủ tục được thực hiện trên môi trường điện tử, việc nộp tiền qua chuyển khoản, nhận thông báo qua phương tiện điện tử giúp tiết kiệm thời gian, chi phí, giảm sự tiếp xúc trực tiếp, hạn chế tiêu cực, nhũng nhiễu.
- Về quản trị nội bộ, số hóa hồ sơ, văn bản, tài liệu giúp công tác lưu trữ, thống kê, kiểm tra được tự động hóa, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả quản lý.
- Về phương diện chiến lược, việc hiện đại hóa hoạt động thi hành án dân sự sẽ góp phần quan trọng vào thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2030, tầm nhìn 2045; đồng thời cụ thể hóa mục tiêu của Chương trình chuyển đổi số quốc gia, thúc đẩy xây dựng nền tư pháp điện tử, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn.
* Một số kiến nghị để hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả thi hành
Để các quy định về ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong Dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) có tính khả thi, đảm bảo thi hành hiệu quả trên thực tiễn, cần:
- Hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ: Việc triển khai chuyển đổi số trong Thi hành án dân sự phải gắn kết với các luật có liên quan như Luật Giao dịch điện tử (2023), Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, Luật An ninh mạng, Luật Công nghệ thông tin, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Doanh nghiệp… để bảo đảm thống nhất, tránh chồng chéo.
- Đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại, an toàn: Cần có kế hoạch đầu tư đồng bộ hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị, phần mềm quản lý và bảo mật dữ liệu; xây dựng trung tâm dữ liệu dự phòng, hệ thống sao lưu, phục hồi dữ liệu, bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin.
- Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực số: Con người là yếu tố trung tâm trong chuyển đổi số. Cần tổ chức các chương trình đào tạo, tập huấn về kỹ năng công nghệ thông tin, quản lý dữ liệu, an ninh mạng cho cán bộ, công chức Thi hành án dân sự các cấp, đồng thời hình thành đội ngũ chuyên gia công nghệ trong ngành.
- Đẩy mạnh phối hợp, chia sẻ dữ liệu liên ngành: Bộ Tư pháp cần chủ động phối hợp với Bộ Công an, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước… để xây dựng cơ chế kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ hoạt động thi hành án.
- Tăng cường truyền thông, tuyên truyền pháp luật: Để người dân, doanh nghiệp hiểu, tin tưởng và sử dụng các dịch vụ số trong Thi hành án dân sự, cần đẩy mạnh công tác truyền thông, hướng dẫn, tư vấn, giải đáp thắc mắc; đồng thời công khai, minh bạch quy trình, thủ tục trên môi trường mạng.
- Đảm bảo nguồn kinh phí ổn định, bền vững: Ngoài ngân sách nhà nước, có thể nghiên cứu huy động nguồn lực xã hội hóa, hợp tác công – tư trong đầu tư hạ tầng công nghệ, bảo trì, nâng cấp hệ thống dữ liệu, phần mềm nghiệp vụ.
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số và hiện đại hóa hoạt động thi hành án dân sự là bước đi chiến lược, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Những nội dung được đề xuất trong Dự thảo Luật không chỉ khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành mà còn mở ra hướng đi mới, tạo nền tảng vững chắc cho việc xây dựng nền tư pháp hiện đại, minh bạch, lấy người dân làm trung tâm phục vụ. Khi Luật được Quốc hội thông qua và triển khai đồng bộ, chắc chắn công tác thi hành án dân sự sẽ có bước chuyển biến mạnh mẽ, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, củng cố niềm tin của nhân dân vào pháp luật, vào công lý, đồng thời thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số quốc gia, hiện thực hóa khát vọng xây dựng “Việt Nam số, tư pháp số, công lý cho mọi người” trong giai đoạn mới./.
Phạm Thị Hiền, Ban I