Sign In

Quyết định về việc giải quyết khiếu nại của ông Phạm Văn Kính - Cao Đại - Minh Phương

02/10/2016

CỤC TRƯỞNG CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
 
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 142 Luật Thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014;
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 7 Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư Pháp quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự.
Xét đơn của ông Phạm Văn Kính, địa chỉ: Tổ 20, khu Cao Đại, phường Minh Phương, Việt Trì, Phú Thọ khiếu nại Quyết định giải quyết khiếu nại số 05/QĐ-CCTHADS ngày 26/8/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì.
Sau khi xem xét nội dung đơn, quá trình tổ chức thi hành án và các tài liệu có liên quan, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ nhận thấy:
 
1. Quá trình tổ chức thi hành án:
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 50/DSST ngày 26/6/2014 của Toà án nhân dân TP. Việt Trì buộc ông Phạm Văn Cường, địa chỉ: khu Cao Đại, phường Minh Phương, Việt Trì, Phú Thọ có nghĩa vụ thanh toán trả ông Giang Đức Thạch, địa chỉ: Phường Minh Nông, Việt Trì, Phú Thọ số tiền 265.811.000đ và lãi chậm thi hành án. Căn cứ đơn yêu cầu thi hành án, ngày 11/8/2014 Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì ban hành quyết định thi hành án số 205/QĐ-CCTHA về việc cho thi hành các khoản nêu trên.
Quá trình xác minh điều kiện thi hành án của ông Phạm Văn Cường cho thấy: Ông Phạm Văn Cường  và bà Hoàng Thị Thu Hiền (vợ) có tài sản là thửa đất số 615 tờ bản đồ số 14, diện tích 236,5m2  (trong đó có 150m2 đất ở và  86,5m2 đất vườn) đã được UBND thành phố Việt Trì cấp giấy CNQSD đất số AK 050493; địa chỉ thửa đất tại tổ 20, khu Cao Đại, phường Minh Phương, TP. Việt Trì; trên đất có 01 nhà xây một tầng, ba gian xây dựng khoảng năm 1990. Tại thời điểm xác minh khối tài sản trên đang được ông Cường, bà Hiền thế chấp vay vốn tại Qũy tín dụng nhân dân phường Minh Phương, dư nợ (gốc) tiền vay đến thời điểm xác minh là 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng chẵn).
Theo yêu cầu của người được thi hành án, ngày 30.9.2014 Chấp hành viên ban hành quyết định số 77/QĐ-CCTHA về việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản đối với ông Phạm Văn Cường. Ngày 14/10/2014 ban hành quyết định cưỡng chế, kê biên xử lý tài sản số 05/QĐ-CCTHA về việc kê biên khối tài sản đã được áp dụng biện pháp bảo đảm. Đồng thời có công văn số 49/CV-CCTHA ngày 15/10/2014 thông báo cho QTD nhân dân phường Minh Phương biết về việc kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp và thực hiện các thủ tục về xác định phần sở hữu đối với tài sản chung của vợ, chồng.
          Ngày 14/01/2015 ông Phạm Văn Cường và bà Hoàng Thị Thu Hiền có đơn xin tự nguyện kê biên tài sản là nhà và đất tại tổ 20, khu Cao Đại, phường Minh Phương vào ngày 27/01/2015. Do người được thi hành án có đơn đề nghị lùi lại thời gian cưỡng chế đối với ông Phạm Văn Cường, với lý do là giáp tết nguyên đán. Vì vậy, ngày 06/5/2015 ông Phạm Văn Cường tiếp tục có đơn đề nghị kê biên tài sản là nhà và đất tại tổ 20, khu Cao Đại, phường Minh Phương để thi hành án. Căn cứ đơn đề nghị của ông Cường, ngày 21/5/2015 Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự TP đã tổ chức kê biên khối tài sản trên.
Tại buổi kê biên và sau khi kê biên, ông Phạm Văn Cường, ông Phạm Quốc Hùng (anh trai ông Cường) và ông Phạm Văn Kính (bố đẻ)  có ý kiến: Năm 2007 ông Kính có tách đất cho ông Cường và ông Hùng (đã được UBND thành phố Việt Trì cấp giấy CNQSD đất). Toàn bộ tài sản gắn liền trên đất là nhà xây cấp bốn, ba gian và cây cối lâm lộc ông Kính không cho ai, do vậy vẫn là tài sản của ông Phạm Văn Kính.
Xác định tài sản kê biên có tranh chấp, căn cứ Điều 75 Luật thi hành án DS năm 2008 Chấp hành viên thông báo cho ông Phạm Văn Kính và các đương sự, người có quyền lợi liên quan về quyền khởi kiện giải quyết tranh chấp, thông báo được tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Quá thời hạn quy định ông Phạm Văn Kính và các đương sự, người có quyền lợi liên quan không khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về tài sản, vì vậy Chấp hành viên tiếp tục tổ chức thi hành án, ký hợp đồng thẩm định giá đối với tài sản đã kê biên. Hiện nay khối tài sản trên đang được ủy quyền cho Công ty cổ phần đầu tư và dịch vụ Bảo Quang Minh bán đấu giá theo quy định.
Do ông Phạm Văn Kính có đơn khiếu nại cho rằng Chấp hành viên đã kê biên tài sản của ông để đảm bảo cho nghĩa vụ thi hành án của ông Phạm Văn Cường là trái quy định pháp luật; ngày 26/8/2015 Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì đã thụ lý giải quyết và ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 05/QĐ-CCTHADS với nội dung không chấp nhận khiếu nại của ông Phạm Văn Kính. Ngày 20/9/2016 Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ nhận được đơn khiếu nại của ông  Phạm Văn Kính, khiếu nại quyết định giải quyết khiếu nại số 05/QĐ-CCTHA của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì.
Ngày 28/9/2016 Cục Thi hành án báo ông Phạm Văn Kính đến làm việc, ông Kính không cung cấp được tài liệu gì chứng minh rằng nhà xây và tài sản gắn liền trên đất là thuộc quyền sở hữu của ông Phạm Văn Kính.
 
2. Nhận định:
Việc ông Phạm Văn Kính khiếu nại quyết định giải quyết khiếu nại số 05/QĐ-CCTHA ngày 26/8/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì, cho rằng Chấp hành viên đã kê biên tài sản của ông để đảm bảo cho nghĩa vụ thi hành án của ông Phạm Văn Cường là không có căn cứ, vì:
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ thi hành án đều cho thấy: ông Phạm Văn Cường và bà Hoàng Thị Thu Hiền (vợ) có tài sản là Quyền sử dụng đất diện tích 236,5m. Ngày 25/9/2007 UBND thành phố Việt Trì đã cấp giấy CNQSD đất số AK 050493 cho ông Cường bà Hiền; trên đất có 01 nhà xây cấp bốn, ba gian. Toàn bộ khối tài sản trên được ông Cường bà Hiền thế chấp vay vốn tại Quỹ Tín dụng nhân dân phường Minh Phương. Ngày 14/01/2015 và ngày 06/5/2015 ông Cường và bà Hiền có 02 đơn xin tự nguyện kê biên tài sản là quyền sử dụng đất và nhà xây trên đất tại khu Cao Đại, phường Minh Phương để thi hành án.
Sau khi kê biên, ông Phạm Văn Kính (bố đẻ ông Phạm Văn Cường) cho rằng ngày 21/5/2015 Chấp hành viên đã kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất tại khu Cao Đại, phường Minh Phương, TP Việt Trì để đảm bảo cho nghĩa vụ thi hành án của ông Phạm Văn Cường, trong khối tài sản đã kê biên thì nhà xây cấp 4 một tầng và các tài sản gắn liền trên đất là của ông. Xét thấy tài sản kê biên có tranh chấp, Chấp hành viên đã căn cứ khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 ban hành thông báo số 233/TB-CCTHA hướng dẫn ông Phạm Văn Kính và các đương sự, người có quyền nghĩa vụ liên quan về quyền khởi kiện giải quyết tranh chấp tài sản, thông báo được tống đạt hợp lệ tới ông Phạm Văn Kính và các đương sự. Khoản 1 Điều 75 quy định: Trường hợp tài sản của người phải thi hành án bị cưỡng chế để thi hành án mà có người khác  tranh chấp thì Chấp hành viên thông báo cho đương sự, người có tranh chấp về quyền của họ được khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết, …việc xử lý tài sản được được thực hiện theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền.  Trong thời hạn 30 ngày,  kể từ ngày Chấp hành viên yêu cầu mà đương sự, người có tranh chấp không khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì tài sản được xử lý để thi hành án theo quy định của Luật này. Quá thời hạn quy định, ông Phạm Văn Kính và các đương sự không có yêu cầu giải quyết tranh chấp về tài sản.
Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần thứ nhất và thứ hai, ông Phạm Văn Kính đều không đưa ra được căn cứ chứng minh khối tài sản gắn liền trên đất mà hiện nay vợ chồng ông Phạm Văn Cường đang ở, quản lý và sử dụng là của ông Phạm Văn Kính. Vì vậy, việc ông Phạm Văn Kính cho rằng Chấp hành viên đã vi phạm trong việc kê biên tài sản là không có cơ sở.
Từ những căn cứ và nhận định trên, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ
QUYẾT ĐỊNH
 
Điều 1. Không chấp nhận toàn bộ đơn khiếu nại của ông Phạm Văn Kính; địa chỉ: Tổ 20, khu Cao Đại, phường Minh Phương, thành phố Việt Trì, Phú Thọ.
Điều 2. Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì chỉ đạo Chấp hành viên tiếp tục tổ chức thi hành quyết định thi hành án số 205/QĐ-CCTHA theo quy định của pháp luật.
Điều 3. Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì, Chấp hành viên được phân công tổ chức thi hành án, người được thi hành án, người phải thi hành án và những người có liên quan có trách nhiệm thi hành Quyết định này. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký./.
File đính kèm
Các tin đã đưa ngày: