CỤC TRƯỞNG CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 142 Luật Thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 7 Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư Pháp quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự.
Xét đơn của ông Trần Huyền và bà Phạm Thị Thu Oanh, địa chỉ: Phố Vàng, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ khiếu nại việc Chấp hành viên Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ kê biên quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền trên đất của ông Trần Huyền và bà Phạm Thị Thu Oanh để đảm bảo cho nghĩa vụ thi hành án của bà Đỗ Thị Dung và hướng dẫn ông, bà khởi kiện giải quyết tranh chấp về tài sản là không đúng quy định pháp luật (đơn đề ngày 05/8/2016).
* Xác minh nội dung đơn khiếu nại:
Căn cứ đơn yêu cầu thi hành án của bà Nguyễn Thị Thanh Hương đề nghị cho thi hành khoản buộc bà Đỗ Thị Dung, địa chỉ khu Ba Mỏ, thị trấn Thanh Sơn phải thanh toán trả số tiền số tiền 651.354.000đ (Sáu trăm năm mươi mốt triệu, ba trăm năm mươi tư ngàn đồng chẵn) và lãi suất chậm thi hành án (theo quyết định bản án DSST số 01/2015/DS-ST ngày 09/02/2015 của Tòa án ND huyện Thanh Sơn, và quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 47/2015/QĐ-PT ngày 31/7/2015 của TAND tỉnh Phú Thọ); Ngày 08/10/2015 Chi cục Thi hành án DS huyện Thanh Sơn ban hành quyết định số 08/QĐ - CCTHA cho thi hành các khoản nêu trên đối với bà Đỗ Thị Dung, quyết định được tống đạt hợp lệ tới các đương sự.
Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn đã tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của bà Đỗ Thị Dung, kết quả xác minh cho thấy: Bà Đỗ Thị Dung có tài sản là 01 nhà xây 05 tầng, hai nhà xây 01 tầng mái lợp proximăng được xây dựng trên 03 thửa đất có tổng diện tích 310m
2, Ngày 21/9/2015 tại Văn phòng Công chứng Thanh Sơn (Phố Vàng, TT Thanh Sơn) bà Đỗ Thị Dung đã ký 03 hợp đồng số 165/2015/HĐCN, 166/2015/HĐCN, 167/2015/HĐCN chuyển nhượng 03 thửa đất trên cho ông Trần Huyền và bà Phạm Thị Thu Oanh (vợ), địa chỉ: phố Vàng, thị trấn Thanh Sơn, cụ thể gồm: QSD đất số AP 043133, diện tích 133.1m
2 đất ở; QSD đất số AG 615206, diện tích 95.7m
2 đất ở; QSD đất số AP 043314, diện tích 81.2m
2 đất ở; tổng giá trị chuyển nhượng là 300 triệu đồng đã được các bên thanh toán đủ, đối với tài sản gắn liền trên đất các bên không chuyển nhượng. Ngày 02/10/2015 ông Huyền, bà Oanh được UBND huyện Thanh Sơn cấp giấy CNQSD đất. Ngày 09/10/2015 ông Huyền, bà Oanh thế chấp 03 QSD đất để vay 2.000.000.000đ (Hai tỷ đồng chẵn) tại Ngân hàng TMCP Đầu tư & phát triển VN, chi nhánh Hùng Vương.
Trong quá trình làm việc với Chấp hành viên ông Huyền, bà Oanh, bà Dung cung cấp bổ sung 01 bản sao “giấy chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng đất ở” lập ngày 06/10/2010 được ký giữa ông Bẩy, bà Dung (bên chuyển nhượng) và ông Huyền, bà Oanh (bên nhận chuyển nhượng), có xác nhận của phó chủ tịch UBND thị trấn Thanh Sơn về hộ khẩu thường trú của bà Dung; và 06 giấy xác nhận việc chuyển nhượng tài sản do 06 cá nhân viết tay. Tài sản chuyển nhượng gồm 03 QSD đất có tổng diện tích 308m
2 và tài sản gắn liền trên đất tại khu Ba Mỏ, thị trấn Thanh Sơn. Các đương sự cho biết việc chuyển nhượng tài sản đã được xác lập từ ngày 06/10/2010, do có nhu cầu vay vốn nên đến ngày 21/9/2015 các bên ký lại hợp đồng chuyển nhượng tại VPCC Thanh Sơn để hoàn thiện thủ tục vay.
Ngày 03/6/2016 Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ ban hành quyết định số 22/QĐ - CTHA về việc rút hồ sơ của Chi cục THADS huyện Thanh Sơn để tổ chức thi hành tại Cục Thi hành án. Căn cứ khoản 1 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ - CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, ngày 23/6/2016 Chấp hành viên ban hành quyết định số 09/QĐ - CTHADS về việc cưỡng chế kê biên, xử lý khối tài sản bà Đỗ Thị Dung đã chuyển nhượng cho ông Huyền, bà Oanh để đảm bảo thi hành án. Ngày 28/7/2016 Chấp hành viên đã tổ chức kê biên tài sản. Ngày 29/7/2016 có thông báo số 143/TB-THA thông báo cho đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014.
Sau khi thụ lý đơn khiếu nại Cục Thi hành án DS tỉnh Phú Thọ đã làm việc trực tiếp với ông Huyền, bà Oanh, tại buổi làm việc ông Huyền, bà Oanh không cung cấp thêm được tài liệu gì khác.
* Nhận định:
Căn cứ quá trình tổ chức thi hành án của Chấp hành viên, kết quả xác minh và các tài liệu có liên quan, đối chiếu với các quy định của pháp luật Cục trưởng Cục Thi hành án DS tỉnh Phú Thọ nhận thấy: Việc ông Trần Huyền, bà Phạm Thị Thu Oanh khiếu nại Chấp hành viên kê biên quyền sử dụng đất và sản gắn liền trên đất của ông, bà để đảm bảo cho nghĩa vụ thi hành án của bà Dung và hướng dẫn ông, bà khởi kiện giải quyết tranh chấp là không có cơ sở, vì: “Giấy chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng đất ở” lập ngày 06/10/2010 được ký giữa ông Bẩy, bà Dung và ông Huyền, bà Oanh là chưa phù hợp với quy định của pháp luật.
- Bộ Luật dân sự 2005 quy định việc chuyển quyền sử dụng đất:
Khoản 1, 2 Điều 689:
“ 1. Việc chuyển quyền sử dụng đất được thực hiện thông qua hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này. 2. Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật”
Điều 698:
“Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bao gồm các nội dung sau đây:…2. Quyền, nghĩa vụ của các bên; 3. Loại đất, hạng đất, diện tích, vị trí, số hiệu, ranh giới và tình trạng đất…5. Giá chuyển nhượng…6. Phương thức, thời hạn thanh toán…. 9.Trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp đồng”.
- Mục (5.1) khoản I Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT - BTP - BTNMT ngày 13/6/2006 hướng dẫn việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất quy định: “...
Khi thực hiện công chứng, chứng thực thì Công chứng viên, Chủ tịch hoặc phó Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn phải chịu trách nhiệm về: a) Thời điểm, địa điểm công chứng, chứng thực ...b) năng lực hành vi dân sự của các bên giao kết hợp đồng...c)Nội dung thỏa thuận của các bên giao kết hợp đồng...d)Chữ ký của các bên giao kết hợp đồng...”
Qua xác minh cho thấy giấy chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng đất ở lập ngày 06/10/2010 được ký giữa ông Bẩy, bà Dung và ông Huyền, bà Oanh đã vi phạm các quy định pháp luật nêu trên, cụ thể:
Về hình thức: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật. Đây là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực, vì vậy các bên khi giao kết hợp đồng phải tuân thủ đúng quy định về hình thức của hợp đồng. Tại giấy chuyển nhượng viết tay, có chữ ký và con dấu của phó chủ tịch UBND thị trấn Thanh Sơn chỉ đơn thuần là xác nhận bà Dung có hộ khẩu thường trú tại địa phương chứ không chứng thực
nội dung hợp đồng, chữ ký, năng lực hành vi dân sự của các bên giao kết hợp đồng…;
Về nội dung, giấy chuyển nhượng không thể hiện được
Quyền, nghĩa vụ của các bên, giá chuyển nhượng, phương thức, thời hạn thanh toán; Trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp đồng, Thể hiện sai các nội dung:
Diện tích đất, số giấy chứng nhận quyền SD đất.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 5 Điều 93 Luật nhà ở 2005 và Điều 692 Bộ Luật dân sự 2005 thì việc chuyển quyền sở hữu nhà ở có hiệu lực kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng, việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại VP đăng ký quyền sử dụng đất, Tuy nhiên việc chuyển nhượng tài sản giữa các bên đã vi phạm các quy định bắt buộc về chuyển quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở ngay từ giai đoạn xác lập hợp đồng. Bên nhận chuyển nhượng cũng không thực hiện nghĩa vụ đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Đối với 06 giấy xác nhận việc chuyển nhượng do 06 cá nhân viết tay không phải là căn cứ để khẳng định cho việc chuyển nhượng tài sản (vì giấy chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng đất ở đã vi phạm quy định của pháp luật về chuyển quyền sử dụng đất).
Từ kết quả xác minh và quy định của pháp luật về chuyển quyền sử dụng đất Chấp hành viên xác định thời điểm các bên ký hợp đồng chuyển nhượng là ngày 21/9/2015 (sau ngày bản án có hiệu lực thi hành), tài sản chuyển nhượng là 03 thửa đất tại khu Ba Mỏ, thị trấn Thanh Sơn, giá chuyển nhượng 300 triệu đồng, bà Dung đã nhận đủ số tiền trên nhưng không sử dụng khoản tiền thu được để thanh toán cho bà Hương, Ngoài khối tài sản trên, bà Dung không còn bất cứ tài sản nào khác có giá trị để thi hành án; Tại khoản 1 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ - CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ quy định
“Kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, nếu người phải thi hành án chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố tài sản cho người khác mà không sử dụng khoản tiền thu được để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên, xử lý để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi kê biên tài sản, nếu có người khác tranh chấp thì Chấp hành viên thông báo cho đương sự, người có tranh chấp thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 75 Luật Thi hành án dân sự” Vì vậy, Chấp hành viên áp dụng biện pháp kê biên đối với bà Đỗ Thị Dung, sau khi kê biên đã hướng dẫn bà Oanh, ông Huyền và các đương sự khởi kiện giải quyết tranh chấp theo quy định tại Điều 75 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 là đúng quy định của pháp luật. Việc ông Huyền, bà Oanh khiếu nại về việc cưỡng chế và hướng dẫn giải quyết tranh chấp của Chấp hành viên Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ không có cơ sở để xem xét. Từ những căn cứ và nhận định trên, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Không chấp nhận toàn bộ đơn khiếu nại của ông Trần Huyền và bà Phạm Thị Thu Oanh, địa chỉ: Phố Vàng, thị trấn Thanh Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ
Điều 2. Trưởng phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án chỉ đạo Chấp hành viên tiếp tục tổ chức thi hành bản án và quyết định thi hành án theo quy định của pháp luật.
Điều 3. Người được thi hành án, người phải thi hành án và những người có quyền và nghĩa vụ liên quan có trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Nếu không nhất trí với quyết định này, ông Trần Huyền và bà Phạm Thị Thu Oanh có quyền khiếu nại tiếp đến Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định./.