I. Những khó khăn, vướng mắc
Có thể thấy các quy định của pháp luật đã tương đối đầy đủ về vấn đề này tuy nhiên, trong thực tiễn thi hành việc hoàn trả tiền, tài sản thi hành án còn gặp rất nhiều khó khăn.
1. Người được trả lại tiền, tài sản không đến nhận tài sản
Thực tiễn có nhiều trường hợp bản án tuyên trả lại tiền, tài sản những loại tiền, tài sản có giá trị nhỏ (ví dụ như: tạm ứng án phí 150.000đ, điện thoại, thìa khóa ...có giá trị thấp, đã qua sử dụng, thậm chí không còn giá trị sử dụng). Vấn đề đặt ra là số tiền ít và những tài sản này có giá trị thấp mặt khác trên địa bàn huyện Việt Yên hầu như các trường hợp được nhận lại tiền tạm ứng án phí đều đi làm công nhân ở các khu công nghiệp, dẫn đến đương sự không đến nhận lại tiền, tài sản được hoàn trả do “ ngại” phải xin nghỉ (xin nghỉ bị trừ tiền lớn hơn số tiền được nhận lại) và bỏ thời gian, công sức để lấy lại. Một số trường hợp đương sự đi tù ở các Trại giam xa hay chuyển địa chỉ đi nơi khác hoặc không thể xác định được địa chỉ của đương sự,… dẫn đến tình trạng cơ quan thi hành án dân sự báo gọi nhiều lần nhưng đương sự không đến nhận tiền, tài sản, việc tổ chức thi hành án bị kéo dài, gặp nhiều khó khăn dẫn đến án tồn đọng.
2. Thủ tục trả lại tiền, tài sản còn bất cập
Về mặt pháp lý, trình tự thủ tục hoàn trả tiền, tài sản có giá trị nhỏ như tiền tạm ứng án phí, điện thoại… hoặc các tài sản có giá trị lớn hơn cho đương sự đều phải thực hiện theo trình tự thủ tục chung do pháp luật quy định. Việc quy định một trình tự, thủ tục chung khi trả lại cho các loại tài sản này gây ra khá nhiều bất cập trong thực tiễn. Theo quy định tại Điều 126 Luật Thi hành án dân sự, sau khi có quyết định trả lại tiền, tài sản tạm giữ, Chấp hành viên thông báo cho đương sự thời gian, địa điểm nhận lại tiền, tài sản. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được thông báo mà đương sự không đến nhận tiền thì Chấp hành viên gửi số tiền đó theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn và thông báo cho đương sự. Hết thời hạn 03 tháng, kể từ ngày được thông báo nhưng đương sự không đến nhận tài sản mà không có lý do chính đáng thì Chấp hành viên xử lý tài sản theo quy định tại các Điều 98, 99 và 101 của Luật Thi hành án dân sự và gửi số tiền thu được theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn, đồng thời thông báo cho đương sự. Hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà đương sự vẫn không đến nhận số tiền đã được gửi tiết kiệm mà không có lý do chính đáng thì cơ quan thi hành án dân sự làm thủ tục sung quỹ nhà nước.
Quy định trên đã hướng dẫn khá cụ thể về cách thức xử lý đối với khoản tiền, tài sản được trả lại cho đương sự mà đương sự không đến nhận. Tuy nhiên, vấn đề vướng mắc là thời gian để xử lý tài sản trong trường hợp đương sự không đến nhận vẫn còn quá dài (hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà đương sự vẫn không đến nhận số tiền đã được gửi tiết kiệm mà không có lý do chính đáng thì cơ quan thi hành án dân sự làm thủ tục sung quỹ nhà nước). Việc này gây ra không ít khó khăn cho quá trình tổ chức thi hành án, tốn kém thời gian, công sức của Chấp hành viên.
Mặt khác tại điểm e khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án trong trường hợp người được nhận tài sản đã được thông báo hợp lệ 2 lần về việc nhận tài sản nhưng không đến nhận”. Theo đó, đối với các việc mà bản án, quyết định tuyên người được thi hành án được nhận lại tài sản, sau khi cơ quan thi hành án dân sự đã thông báo nhưng đương sự không đến nhận cũng không có lý do chính đáng …thì cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án. Nhưng theo chỉ tiêu báo cáo Thống kê quy định tại Thông tư số 08/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 hướng dẫn chế độ báo cáo thống kê thi hành án dân sự thì việc hoãn thi hành án được tính là việc có điều kiện thi hành và tiếp tục được chuyển kỳ sau, dẫn đến việc thi hành án bị tồn đọng, phần nào cũng ảnh hưởng đến chỉ tiêu thi hành án.
Đối với tài sản không bán được hoặc bị hư hỏng không còn giá trị sử dụng khoản 3 Điều 126 Luật Thi hành án dân sự quy định “Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định tiêu huỷ và tổ chức tiêu huỷ tài sản theo quy định tại Điều 125 của Luật này.” Tuy nhiên, để xác định được tài sản không bán được hoặc bị hư hỏng thì lại phải thành lập Hội đồng gồm cơ quan Tài chính, Viện kiểm sát…xác định tình trạng tài sản, sau đó mới tiến hành các thủ tục tiêu hủy tài sản theo quy định. Đây cũng là một thủ tục rườm rà mất thời gian, để giải quyết vấn đề này, ngay tại thời điểm xét xử, Tòa án cần có những nhận định chính xác về giá trị của vật chứng, tài sản được trả lại cho đương sự để có cách tuyên phù hợp. Ví dụ đối với những tài sản được trả lại mà có giá trị nhỏ, đã giảm giá trị, không sử dụng được, Tòa án có thể hỏi nguyện vọng của đương sự có muốn nhận lại tài sản hay không; hoặc tự nguyện sung công quỹ nhà nước hoặc tiêu hủy để giảm bớt các công việc thi hành án sau này.
3. Về phương thức trả lại tiền, tài sản
Theo quy định tại khoản 2 Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định: “2. Đối với khoản tiền chi trả cho người được nhận là cá nhân, cơ quan thi hành án dân sự thông báo bằng văn bản yêu cầu người được nhận đến nhận. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thông báo mà người được nhận tiền không đến nhận nếu họ ở xa trụ sở cơ quan thi hành án dân sự, đã xác định được địa chỉ rõ ràng của họ và khoản tiền có giá trị nhỏ hơn 01 tháng lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang do Nhà nước quy định thì cơ quan thi hành án dân sự lập phiếu chi và gửi tiền cho họ qua đường bưu điện. Trường hợp bưu điện trả lại tiền do không có người nhận thì cơ quan thi hành án dân sự xử lý theo quy định tại Khoản 5 Điều này. Trường hợp người được nhận tiền cung cấp tài khoản và yêu cầu chuyển khoản thì cơ quan thi hành án dân sự làm thủ tục chuyển khoản”.
Phương thức trả lại tài sản như trên có khá nhiều thuận lợi cho chấp hành viên, tuy nhiên điều luật quy định “Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thông báo mà người được nhận tiền không đến nhận nếu họ ở xa trụ sở cơ quan thi hành án dân sự, đã xác định được địa chỉ rõ ràng của họ và khoản tiền có giá trị nhỏ hơn 01 tháng lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang do Nhà nước quy định thì cơ quan thi hành án dân sự lập phiếu chi và gửi tiền cho họ qua đường bưu điện...”. Việc quy định xa trụ sở cơ quan thi hành án dân sự là rất bất cập, khó áp dụng vì thực tiễn tại địa bàn huyện Việt Yên nhiều trường hợp đương sự được nhận lại tiền tạm ứng án phí ở ngay thị trấn Bích Động đã được Thông báo bằng văn bản, gọi điện thoại, đến nhà không gặp... họ không đến nhận tiền thì có được gửi tiền cho họ qua đường bưu điện như quy định trên không? Do đó đề nghị xem xét bỏ quy định nếu họ ở xa trụ sở cơ quan thi hành án dân sự.
Mặt khác, đối với những tài sản được trả lại như điện thoại, thìa khóa...mà đương sự đang đi chấp hành án phạt tù tại các Trại giam ở các tỉnh khác hiện đang gây khó khăn cho Chấp hành viên dẫn đến việc thi hành án bị tồn đọng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 17 Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp thì “Việc thanh toán tiền, tài sản được thực hiện theo một trong các hình thức sau đây (1) Đương sự trực tiếp đến nhận tiền tại trụ sở cơ quan thi hành án (2) Đương sự ủy quyền cho người khác nhận thay - trường hợp người nhận thay phải có giấy ủy quyền hợp pháp...”, như vậy đương sự được nhận lại tài sản mà không trực tiếp đến nhận được thì phải có giấy ủy quyền hợp pháp cho người thân nhận thay nhưng việc người thân của đương sự lấy giấy ủy quyền tại Trại giam cũng là một việc khó khăn mà Chấp hành viên thì không phải trường hợp nào cũng đến trực tiếp Trại giam để trả lại tài sản cho đương sự được. Trong khi đó, tài sản trả lại như điện thoại, chìa khóa...đều đã qua sử dụng, có giá trị thấp thậm trí hết giá trị sử dụng thì cơ quan thi hành án có thể trả cho người thân của đương sự và có xác nhận của UBND cấp xã nơi cư trú. Do đó, đề xuất xem xét bổ sung thêm quy định này đối với trường hợp tài sản được nhận là những tài sản có giá trị nhỏ (ví dụ: nhỏ hơn 01 tháng lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang do Nhà nước quy định).
Giải quyết dứt điểm các vụ án hoàn trả tiền, tài sản, đặc biệt là các tài sản có giá trị nhỏ không chỉ có ý nghĩa đối với việc thực thi trên thực tế bản án, quyết định của Tòa án mà còn có ý nghĩa lớn trong việc giảm lượng án tồn đọng và tăng chỉ tiêu về thi hành án cho Chấp hành viên nói riêng và cơ quan thi hành án dân sự nói chung.
II. Một số kiến nghị, đề xuất
1. Đối với những tài sản có giá trị nhỏ, đề nghị xem xét quy định thống nhất một phương án xử lý chung đối với loại tài sản này (ví dụ: giá trị tài sản dưới 1.000.000đ) thì Tòa án có thể tuyên tịch thu để sung công quỹ nhà nước hoặc tiêu hủy (đối với tài sản đã quá cũ, giảm giá trị), không nên tuyên trả lại cho đương sự, đặc biệt đối với đương sự là bị cáo phải chịu hình phạt tù giam với thời gian dài. Việc này sẽ giúp giảm tải số lượng việc thi hành án đáng kể cho các cơ quan thi hành án dân sự và góp phần tiết kiệm thời gian, nhân lực, chi phí.
2. Đối với thời gian làm thủ tục sung công quỹ nhà nước: Đề nghị xem xét rút ngắn khoảng thời gian làm thủ tục sung công quỹ nhà nước đối với số tiền đã gửi tiết kiệm mà đương sự không đến nhận (từ 05 năm xuống còn 03 năm) để tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết việc thi hành án.
3. Có thể quy định một trình tự thủ tục trả lại riêng (theo trình tự rút gọn) đối với các tài sản có giá trị nhỏ với một cơ chế thông thoáng hơn; đồng thời bổ sung các phương thức trả lại tài sản linh hoạt đối với một số loại tài sản như phương thức gửi qua đường bưu điện, gửi trả người thân có xác nhận của UBND cấp xã nơi cư trú … để thuận lợi cho việc thi hành án đối với các loại việc này
Trong thực tiễn, trên địa bàn huyện Việt Yên số lượng việc thi hành án khoản hoàn trả lại tiền, tài sản chiếm số lượng tương đối lớn, đặc biệt là đối với các vụ việc Hôn nhân gia đình, Hình sự ngày càng có xu hướng gia tăng như hiện nay, việc khắc phục những khó khăn, bất cập trong việc hoàn trả lại tiền, tài sản có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả, chỉ tiêu về công tác thi hành án dân sự./.
Chi cục THADS huyện Việt Yên