Chuyển giao quyền sử dụng đất là một loại việc rất phổ biến trong thi hành án dân sự. Việc cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất được quy định tại Điều 117 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.
1. Trường hợp bản án, quyết định tuyên nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất thì Chấp hành viên tổ chức giao diện tích đất cho người được thi hành án.
Khi tiến hành giao đất phải có sự tham gia của đại diện cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cùng cấp và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có đất được chuyển giao.
2. Việc xử lý tài sản gắn liền với đất được chuyển giao thực hiện theo quy định sau đây:
a) Trường hợp tài sản gắn liền với đất hình thành sau khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì Chấp hành viên yêu cầu người có tài sản đó tháo dỡ hoặc chuyển tài sản ra khỏi diện tích đất phải chuyển giao cho người được thi hành án. Nếu người có tài sản không thực hiện thì Chấp hành viên cưỡng chế tháo dỡ hoặc chuyển tài sản ra khỏi diện tích đất phải chuyển giao, trừ trường hợp đương sự có thoả thuận khác. Chi phí cưỡng chế do người có tài sản chịu.
Trường hợp người có tài sản gắn liền với đất từ chối nhận tài sản thì Chấp hành viên lập biên bản ghi rõ số lượng, chủng loại, tình trạng từng loại tài sản, giao tài sản cho tổ chức, cá nhân có điều kiện bảo quản hoặc bảo quản tại kho của cơ quan thi hành án dân sự và thông báo địa điểm, thời gian để người có tài sản nhận lại tài sản.
Hết thời hạn thông báo mà người có tài sản không đến nhận thì tài sản được xử lý theo quy định tại Điều 126 của Luật này;
b) Trường hợp tài sản gắn liền với đất có trước khi có bản án, quyết định sơ thẩm nhưng bản án, quyết định được thi hành không tuyên rõ việc xử lý đối với tài sản đó thì cơ quan thi hành án dân sự yêu cầu Toà án đã ra bản án, quyết định giải thích rõ việc xử lý đối với tài sản hoặc đề nghị Toà án có thẩm quyền xem xét lại nội dung bản án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
3. Việc cưỡng chế giao quyền sử dụng đất cho người trúng đấu giá hoặc cho người nhận quyền sử dụng đất để trừ vào số tiền được thi hành án được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều này.
Điều 117 Luật THADS sửa đổi đã quy định tương đối rõ ràng về trình tự, thủ tục đối với trường hợp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và xử lý tài sản gắn liền với đất. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng quy định trên vẫn còn có một số vướng mắc. Sau đây xin đưa ra một trường hợp cụ thể trong thực tế để cùng trao đổi:
Tại Quyết định số 116/2015/QĐST-HNGĐ ngày 18/10/2015 của toàn án nhân dân huyện X tuyên:
Về tài sản chung:
Bà Nguyễn Thị A được quản lý, sở hữu và sử dụng khối tài sản tại địa chỉ: thôn Long Thượng, xã Kim Long, huyện X bao gồm:
-Thửa đất 197 có diện tích Diện tích 129,5m2 được nối các điểm mốc giới 3,4,5,6 có chiều dài 23,56 m, chiều rộng là 5,5 m theo hồ sơ kỹ thuật thửa đất lập ngày 05/10/2015 do CTCP kỹ thuật công nghệ Tài nguyên Mội trường đo vẽ. Trên đất có các tài sản là sân gạch, công trình phụ diện tích 20 m2 . Tổng giá trị tài sản là 100.000.000đ
Bà Nguyễn Thị A có trách nhiệm thanh toán trả Ông Nguyễn Văn B số tiền là 50.000.000đ
Đây là vụ việc chia tài sản chung vợ chồng trong đó Tòa án đã xác định rõ phần sở hữu của từng người. Kết quả xác minh cho thấy ông Nguyễn Văn B đang quản lý, sử dụng toàn bộ phần đất và tài sản của cả hai vợ chồng. Ông Nguyễn Văn B không tự nguyện giao phần tài sản theo bản án tuyên cho bà Nguyễn Thị A.
Trong quá trình giải quyết việc thi hành án trên, có hai quan điểm được đưa ra.
Quan điểm thứ nhất : Tại khoản 1 điều 117 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định:
1. Trường hợp bản án, quyết định tuyên nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất thì Chấp hành viên tổ chức giao diện tích đất cho người được thi hành án.
Khi tiến hành giao đất phải có sự tham gia của đại diện cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cùng cấp và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có đất được chuyển giao.
Trong trường hợp này Bản án chỉ tuyên:“ Bà Nguyễn Thị A được quản lý, sở hữu và sử dụng khối tài sản….” chứ không tuyên rõ nghĩa vụ buộc chuyển giao tài sản của ông Nguyễn Văn B cho bà Nguyễn Thị A. Phân tích nội dung điều luật: “Trường hợp bản án, quyết định tuyên nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất thì Chấp hành viên tổ chức giao diện tích đất cho người được thi hành án”thì chấp hành viên chỉ tiến hành cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất nếu trong bản án tuyên rõ nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất. Do đó cơ quan thi hành án không thể áp dụng quy định tại Điều 117 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 để cưỡng chế thi hành án đối với ông B. Trường hợp này cần yêu cầu Tòa án giải thích bản án, tuyên rõ nội dung: Buộc ông Nguyễn Văn B phải giao tài sản trả bà A thì mới có cơ sở để tổ chức thi hành.
Quan điểm thứ hai: Vẫn áp dụng được khoản 5 Điều 71 và điều 117 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 để cưỡng chế thi hành án đối với ông B bởi vì:
Thứ nhất: Đây là việc phân chia tài sản chung vợ chồng; Mặc dù trong phần Quyết định của bản án không tuyên rõ nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất của ông B đối với bà A nhưng Tòa án đã xác định rõ phần tài sản của bà A trong khối tài sản chung và trên thực tế ông B đang quản lý, sử dụng phần tài sản này. Ông B phải có nghĩa vụ chuyển giao trả bà A phần tài sản của bà A để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bà A.
Thứ hai: Do ông B không tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bà A nên cơ quan Thi hành án cần phải áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất để buộc ông B phải chuyển giao phần tài sản nói trên cho bà A . Theo đó cần phải áp dụng khoản 5 Điều 71 và điều 117 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 để cưỡng chế thi hành án đối với ông B.
Chính vì vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về điều luật trên nên nhiều chấp hành viên hết sức lúng túng khi giải quyết các vụ việc chia tài sản ly hôn, chia thừa kế… liên quan đến việc chuyển giao quyền sử dụng đất khi nội dung của bản án chỉ xác định phần tài sản của mỗi người nhưng không tuyên rõ về nghĩa vụ chuyển giao tài sản .
Hiện nay các bản án chia tài sản chung vợ chồng, chia thừa kế phát sinh ngày càng nhiều, trong đó việc Tòa án chỉ xác định cụ thể phần sở hữu của các bên mà không tuyên rõ nghĩa vụ chuyển giao tài sản là rất phổ biến. Nếu áp dụng đúng theo nội dung câu chữ của điều luật “ Trường hợp bản án, quyết định tuyên nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất thì Chấp hành viên tổ chức giao diện tích đất cho người được thi hành án” thì số lượng các bản án, quyết định phải đề nghị Tòa giải thích là rất lớn, gây khó khăn cho công tác thi hành án. Do vậy, đề nghị sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn nữa về vấn đề này để thuận lợi hơn cho chấp hành viên trong quá trình áp dụng pháp luật.
Trên đây xin nêu ra một trường hợp thi hành án đang gặp phải vướng mắc trong thực tế, mong nhận được ý kiến trao đổi của bạn đọc.
Hoàng Thị Thanh Hoa
Chi cục THADS huyện Phú Xuyên, Hà Nội