Theo Từ điển Tiếng Việt thì "xác minh" có nghĩa là "làm cho rõ sự thật qua thực tế và chứng cớ cụ thể". Như vậy, xác minh là tìm hiểu, thu thập các thông tin, tài liệu, chứng cứ từ những sự việc, hiện tượng xảy ra trong thực tế cuộc sống bằng những cách khác nhau để làm sáng tỏ sự thật về một vấn đề nào đó. Xác minh điều kiện thi hành án là việc Chấp hành viên, Thừa phát lại thu thập thông tin, tiếp cận, xác định đối tượng mục tiêu cần phải thi hành (tài sản, thu nhập của người phải thi hành án, vật, giấy tờ, nhà phải trả…) và các thông tin khác phục vụ cho quá trình tổ chức thi hành án như: nhân thân, hoàn cảnh gia đình của người phải thi hành án…Vấn đề xác minh điều kiện thi hành án được quy định tại Điều 44 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014 (Luật Thi hành án dân sự) và được hướng dẫn cụ thể tại Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự). Trong thực tế, việc xác minh điều kiện thi hành án còn gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại.
Thứ nhất: Việc minh bạch tài sản ở nước ta hiện nay còn rất nhiều bất cập. Nền kinh tế chủ yếu tiêu dùng bằng tiền mặt dẫn đến rất khó quản lý thu nhập của người phải thi hành án. Trong trường hợp người phải thi hành án tích trữ, lưu thông giao dịch bằng tiền mặt thì việc xác minh tài sản rất khó thực hiện và xác định chính xác. Mặt khác, người phải thi hành án còn dùng rất nhiều phương thức, “thủ đoạn” để tẩu tán tài sản để thi hành án nhưng pháp luật chưa thật sự có những cơ chế pháp lý hữu hiệu để ngăn chặn. Việc xác định tài sản, thu nhập với một số đối tượng thi hành án gần như là “bất khả thi” khi họ không thường xuyên có mặt tại địa phương, đi làm ăn xa…Địa phương là cơ quan duy nhất có thể cung cấp thông tin thì cũng rất khó khăn để nắm được thông tin về tài sản, thu nhập của người phải thi hành án.
Việc xác minh đối với động sản, đặc biệt là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng là một bài toán thực sự nan giải đối với Chấp hành viên và cơ quan Thi hành án dân sự vì nhiều lý do khác nhau: tài sản rất dễ bị tẩu tán, tráo đổi, khó xác định giá trị… Các giao dịch mua bán, chuyển nhượng đối với các tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu trên thực tế không kiểm soát được.
Trường hợp người phải thi hành án là thành viên góp vốn vào doanh nghiệp: Luật Thi hành án dân sự đã quy định rõ Chấp hành viên có quyền kê biên phần vốn góp của người phải thi hành án, đồng thời cũng quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin nơi nhận góp vốn của người phải thi hành án. Tuy nhiên, khi áp dụng quy định này, Chấp hành viên vẫn gặp phải một số khó khăn, vướng mắc trong việc xác định phần giá trị vốn góp và biện pháp kê biên xử lý phần vốn góp. Một phần do các loại hình doanh nghiệp này ngay từ khi thành lập đã không có sự thỏa thuận rõ ràng về cơ cấu tổ chức, quyền và nghĩa vụ của các thành viên, mức góp vốn và cách thức phân chia lợi nhuận, cơ chế kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh. Hai là để xác định phần vốn góp thực tế của các thành viên trong công ty yêu cầu nhiều tài liệu pháp lý khác nhau mà chấp hành viên khó thu thập như: Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; điều lệ công ty; giấy chứng nhận góp vốn, cổ phiếu; sổ đăng ký thành viên, sổ đăng ký cổ đông; báo cáo tài chính doanh nghiệp, sổ sách kế toán doanh nghiệp; các chứng từ khác về việc góp vốn, phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp.
Thứ hai: Về trách nhiệm xác minh, Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014 đã sửa đổi quy định về chủ thể thực hiện xác minh điều kiện thi hành án theo hướng xác minh tài sản là quyền của người được thi hành án, chứ không phải nghĩa vụ của họ, trách nhiệm xác minh điều kiện thi hành án thuộc về Chấp hành viên. Điều này mặc dù có những ưu điểm nhất định, khắc phục những bất cập của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, nhưng Chấp hành viên không thể có động lực xác minh bằng người được thi hành án, nên hiệu quả của việc xác minh phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: sự mẫn cán, nhiệt tình của mỗi Chấp hành viên …. Trên thực tế, thời gian thực hiện công tác xác minh của Chấp hành viên trung bình chiếm đến quá nửa thời gian của một hồ sơ kể từ khi được Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự giao đến khi kết thúc hồ sơ, chưa kể đối với hồ sơ cần phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế có huy động nhiều lực lượng tham gia thì thời gian và các nội dung xác minh càng đa dạng và phức tạp hơn. Quy định Chấp hành viên có nhiệm vụ xác minh đặt ra gánh nặng công việc quá tải đối với Chấp hành viên, dẫn đến hiệu quả có thể không cao. Do đó, theo cá nhân tác giả, pháp luật nên quy định trách nhiệm tiến hành xác minh bao gồm cả người được thi hành án và Chấp hành viên, trong đó vẫn đề cao việc xác minh của người được thi hành án. Điều này cũng phù hợp với tính chất của việc thi hành các bản án, quyết định về dân sự. Bởi vì thi hành án dân sự suy cho cùng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích “tư” của người được thi hành án. Người được thi hành án là người có động lực cao nhất trong việc xác minh điều kiện thi hành án.
Thứ ba: Về trình tự thủ tục tiến hành xác minh:
- Về thời hạn xác minh: tại khoản 1 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự quy định: “trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Chấp hành viên phải tiến hành xác minh ngay”. Quy định này xuất phát từ tính khẩn cấp của biện pháp khấn cấp tạm thời cần áp dụng. “Xác minh ngay” trong trường hợp này thể hiện sự cấp thiết, được hiểu là ngay trong thời gian gần nhất sau khi Chấp hành viên nhận quyết định thi hành án. Tuy nhiên, trong thực tiễn, thế nào là “xác minh ngay” vẫn còn có những quan điểm chưa thống nhất, thời điểm xác minh trong trường hợp này là ngay trong ngày hay có thể sau đó? Do vậy, Luật Thi hành án dân sự và văn bản hướng dẫn thi hành cần quy định rõ hơn về vấn đề này.
- Về nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập: Điều 7a, Điều 44 Luật Thi hành án dân sự quy định người phải thi hành án có nghĩa vụ kê khai trung thực tài sản, điều kiện thi hành án; cung cấp đầy đủ tài liệu, giấy tờ có liên quan đến tài sản của mình khi có yêu cầu của người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai đó.
Theo Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, khi tiến hành xác minh Chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án. Nội dung kê khai phải nêu rõ loại, số lượng tiền, tài sản hoặc quyền tài sản; tiền mặt, tiền trong tài khoản, tiền đang cho vay, mượn; giá trị ước tính và tình trạng của từng loại tài sản; mức thu nhập định kỳ, không định kỳ, nơi trả thu nhập; địa chỉ, nơi cư trú của người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng; khả năng và điều kiện thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Chấp hành viên phải nêu rõ trong biên bản xác minh điều kiện thi hành án về việc đương sự kê khai hoặc không kê khai tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án.
Thực tiễn áp dụng quy định này có một số điểm còn bất cập như sau:
Một là: Từ nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập của người phải thi hành án, việc này chuyển hóa thành nghĩa vụ, thủ tục phải thực hiện của Chấp hành viên. Thực tế, tình trạng bất hợp tác của người phải thi hành án với cơ quan Thi hành án diễn ra thường xuyên. Có những trường hợp người phải thi hành án cố tình trốn tránh, không tiếp xúc, gặp mặt Chấp hành viên thì việc này gần như không thể thực hiện được.
Hai là: về nội dung và mức độ các thông tin tài sản của người phải thi hành án phải cung cấp cần quy định cụ thể hơn. Người phải thi hành án có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án được hiểu là người phải thi hành án phải cung cấp đầy đủ thông tin về tất cả các loại tài sản thuộc quyền sở hữu và quyền sử dụng hợp pháp của mình hay chỉ cung cấp đầy đủ các thông tin về một phần hoặc một loại tài sản nào đó tương ứng với nghĩa vụ thi hành án?
Ba là: việc yêu cầu kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án từ người phải thi hành án đôi khi trở thành một quy định mang tính hình thức.Trong thực tiễn, người phải thi hành án thường không có ý thức tự kê khai tài sản, thu nhập hoặc việc kê khai chỉ mang tính hình thức. Trong khi đó các chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm này còn hạn chế. Theo quy định tại khoản 36 Điều 1 Nghị định số 67/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã quy định mức xử phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi không kê khai trung thực tài sản, điều kiện thi hành án. Mức phạt như trên còn quá nhẹ, chưa đủ nghiêm khắc để răn đe người phải thi hành án có hành vi vi phạm. Mặt khác, tại Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định “Trường hợp người phải thi hành án không kê khai hoặc phát hiện việc kê khai không trung thực thì tùy theo mức độ vi phạm, Chấp hành viên có thể xử phạt hoặc đề nghị người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 68 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã thì mức phạt tiền tối đa mà Chấp hành viên được áp dụng là 500.000 đồng, do đó Chấp hành viên không thể trực tiếp xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền nói trên mà phải đề nghị người có thẩm quyền xử phạt; điều này cũng dẫn đến việc xử phạt vi phạm hành chính gặp khó khăn. Ngoài việc xử phạt hành chính với mức thấp nêu trên, pháp luật cũng chưa có chế tài nào khác đủ sức răn đe đối với việc người phải thi hành án không kê khai; kê khai không trung thực, hoặc cung cấp không đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập của người phải thi hành án.
Về mặt chủ thể thực hiện kê khai, người phải thi hành án trong các bản án, quyết định rất đa dạng, có thể là cá nhân, có thể là cơ quan, tổ chức (doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước…vv), quy định về trách nhiệm kê khai tài sản, thu nhập của người phải thi hành án trong các trường hợp mà người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức sẽ được thực hiện như thế nào cũng là vấn đề cần tiếp tục có những quy định cụ thể hơn để thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật.
Bốn là: Về công tác phối hợp cung cấp thông tin điều kiện thi hành án
Thực tiễn cho thấy Chấp hành viên thực hiện việc xác minh điều kiện thi hành án còn gặp không ít khó khăn, hệ thống đăng ký tài sản còn chưa đảm bảo tính liên thông, đồng bộ, hiện đại, dễ tiếp cận. Hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin tại nhiều cơ quan chưa được số hóa, vẫn còn quản lý trên giấy tờ, sổ sách thông thường, việc tra cứu thủ công dễ nhầm lẫn hoặc bỏ sót thông tin. Một số cơ quan, tổ chức, cá nhân nắm thông tin từ chối cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin sơ sài, không đầy đủ, tuy nhiên rất khó để xem xét trách nhiệm đối với các trường hợp này. Ví dụ: Theo điểm b khoản 6 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự, sau 03 ngày làm việc kể từ khi nhận được văn bản yêu cầu cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án của Chấp hành viên, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất phải có văn bản trả lời về nội dung này. Tuy nhiên, trên thực tế cơ quan thi hành án dân sự thường chậm nhận được văn bản trả lời, thậm chí có cả những trường hợp không nhận được văn bản trả lời. Trong khi đó chưa có chế tài nào áp dụng đối với các trường hợp Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất nói riêng và các cơ quan có liên quan nói chung chậm trễ trong việc phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự hoặc chất lượng thông tin cung cấp sơ sài, thiếu chính xác…ảnh hưởng đến quá trình tổ chức thi hành án. Theo quy định tại khoản 36 Điều 1 Nghị định số 67/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 quy định mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi không cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền thi hành án mà không có lý do chính đáng là từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Tuy nhiên, trong thực tiễn để xử phạt hành vi này quả thực không dễ dàng bởi nó sẽ làm ảnh hưởng đến mối quan hệ phối hợp trong công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, việc cung cấp thông tin vẫn chủ yếu phụ thuộc vào nhận thức, mức độ tự nguyện của các chủ thể nắm giữ thông tin về tài sản của người phải thi hành án. Do đó, cần quy định rõ ràng hơn về trách nhiệm cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của các cơ quan hữu quan và các chế tài pháp lý đủ mạnh để áp dụng đối với các trường hợp vi phạm trách nhiệm này. Ngoài ra, khoản 6 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự cũng chưa quy định rõ trách nhiệm của Chủ tịch UBND cấp xã tham gia với tư cách là người đứng đầu chính quyền địa phương khi phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự để xác minh điều kiện thi hành án.
Để bảo đảm việc thi hành án có hiệu quả, nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nói chung và hoàn thiện các quy định về thông tin tài sản của người phải thi hành án nói riêng như mức độ thông tin tài sản thi hành án phải cung cấp; làm thế nào để nâng cao ý thức tự giác của người phải thi hành án trong việc cung cấp thông tin về tài sản thi hành án khi thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế khi họ đang trong quá trình phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án; việc cung cấp thông tin tài sản thi hành án chỉ là nghĩa vụ bắt buộc đối với người phải thi hành án hay là nghĩa vụ bắt buộc đối với đồng thời cả người phải thi hành án và người phải thi hành án? khoảng thời gian mà người phải thi hành án phải cung cấp các thông tin về tài sản của mình (thời điểm bắt đầu và kết thúc trách nhiệm cung cấp thông tin về tài sản của người phải thi hành án); thông tin về các giao dịch dân sự, kinh tế giữa người phải thi hành án với những chủ thể có mối quan hệ gần gũi khác đã được thực hiện trước thời điểm người phải thi hành án cung cấp thông tin về tài sản của mình cho cơ quan thi hành án dân sự; ngoài chế tài xử phạt vi phạm hành chính thì các chế tài khác như trách nhiệm bồi thường dân sự hoặc chế tài hình sự có được đặt ra không nếu người phải thi hành án không trung thực trong việc kê khai thông tin về tài sản của mình? v.v.
Từ những khó khăn trong thực tiễn thực hiện xác minh điều kiện thi hành án nêu trên, nhóm tác giả đưa ra một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất: Các văn bản quy định xác minh điều kiện thi hành án còn tập trung nhiều ở việc quy định trình tự, thủ tục mà chưa có nhiều quy định cụ thể về nội dung xác minh, do đó pháp luật về thi hành án dân sự cần có những quy định cụ thể hơn về nội dung xác minh thi hành án.
Thứ hai: Đối với quy định yêu cầu người phải thi hành kê khai tài sản, thu nhập, nên quy định bắt buộc ở một số trường hợp nhất định, còn lại là khuyến khích đối với Chấp hành viên. Pháp luật các nước đều quy định chế tài nghiêm khắc đối với các trường hợp không cung cấp thông tin. Thậm chí, pháp luật trao cho Tòa án quyền ban hành lệnh bắt và giam giữ người phải thi hành án đã vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin về tài sản của người phải thi hành án. Chế tài này buộc người phải thi hành án hoặc người thứ ba phải có trách nhiệm hơn trong việc cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án khác. Đây là điểm mà Việt Nam nên cân nhắc tham khảo nhằm nâng cao trách nhiệm của người phải thi hành án và các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp thông tin về tài sản của người phải thi hành án, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tổ chức thi hành án dân sự.
Ngoài ra, có thể xem xét tham khảo kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Đức trong việc quy định về kê khai tài sản thu nhập như : Về mức độ thông tin về tài sản mà người phải thi hành án phải cung cấp: Đối với các yêu cầu thi hành án về tiền, pháp luật thi hành án dân sự Cộng hòa Liên bang Đức quy định người phải thi hành án phải cung cấp thông tin về tất cả các loại tài sản thuộc về người phải thi hành án. Đồng thời trong danh sách tài sản được kê khai, người phải thi hành án phải cung cấp đầy đủ các lý do cũng như những bằng chứng đối với những thông tin về tài sản được cung cấp; về chế tài áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án cố tình không thực hiện việc kê khai thông tin tài sản, thu nhập: Nếu người phải thi hành án không đến văn phòng của Chấp hành viên theo lịch hẹn để cung cấp thông tin về tài sản và tình hình tài chính của mình mà không có lý do chính đáng hoặc từ chối cung cấp thông tin về tài sản và tình hình tài chính của mình theo Điều 802c Bộ luật Tố tụng Dân sự Đức mà không đưa ra được bất kỳ một lý do phù hợp nào thì họ sẽ bị bắt giữ để buộc người phải thi hành án phải cung cấp các thông tin theo yêu cầu. Người phải thi hành án có thể sẽ bị bắt giam giữ trên cơ sở lệnh bắt giữ được phát hành bởi Tòa án theo yêu cầu của người được thi hành án (biện pháp cưỡng chế giam giữ) cho đến khi họ cung cấp được đầy đủ thông tin về tài sản và tình trạng tài chính của mình, thời hạn tối đa của việc giam giữ này là 06 tháng. Lệnh bắt giữ không cần thiết phải được chuyển cho người phải thi hành án trước khi thực hiện việc bắt giữ. Một bản photocopy đã được xác nhận của Lệnh bắt giữ sẽ được chuyển giao trực tiếp cho người phải thi hành án tại thời điểm bắt giữ. Người có thẩm quyền bắt giữ người phải thi hành án trong trường hợp này là Chấp hành viên thi hành án.
Thứ ba: Để nâng cao trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc cung cấp thông tin của người phải thi hành án và phối hợp tốt trong hoạt động thi hành án dân sự, pháp luật cần quy định rõ mức chi kinh phí đảm bảo cho hoạt động phối hợp thi hành án; những trường hợp được thuê chuyên gia và mức kinh phí đảm bảo. Đồng thời cần có quy định rõ hơn, cụ thể hơn, mạnh hơn về chế tài xử lý đối với trường hợp chưa phối hợp, phối hợp chưa tốt đối với cơ quan Thi hành án dân sự.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các văn phòng Thừa phát lại và cơ quan Thi hành án dân sự trong tổ chức thi hành án dân sự trong công tác xác minh điều kiện thi hành án, nhằm giảm tải gánh nặng cho Chấp hành viên trong xác minh điều kiện thi hành án.
Thứ tư: Cần có quy định thống nhất, đồng bộ về cơ chế kiểm soát nguồn thu nhập, tài sản của người phải thi hành án thông qua việc đăng ký, kê khai tài sản nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác minh tài sản. Pháp luật về tài chính, ngân hàng, dân sự cần có quy định mở rộng phạm vi các giao dịch phải thông qua tài khoản, hạn chế sử dụng tiền mặt trong nhân dân.
Thứ năm: Cần tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tố tụng và tư pháp đối với việc xác minh tài sản thi hành án. Từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử đến giai đoạn thi hành án rất cần một sự xâu chuỗi và liên kết chặt chẽ về thông tin tài sản của người phải thi hành án. Trong quá trình chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án, gặp phải những khó khăn trong xác minh, xuất hiện sự chống đối, nhằm trốn tránh việc kê khai tài sản, trốn tránh trách nhiệm thi hành án dẫn đến chấp hành viên có thể không thực hiện được đầy đủ quyền và đúng trình tự theo quy định pháp luật thì nhiệm vụ của Kiểm sát viên, của Tòa án như thế nào, vai trò của các cơ quan tố tụng được quy định như thế nào? Đây cũng là những vấn đề cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trong Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bởi lẽ bản án được thi hành nhanh, hiệu quả là sản phẩm, công sức và là kết quả chung của cả một quá trình tố tụng, chứ không riêng của Chấp hành viên, những lúc khó khăn, nguy hiểm trên thực tế "thực địa" mà chấp hành viên phải đương đầu, sự chống đối quyết liệt của người phải thi hành án nhằm thách thức chấp hành viên, tức là thách thức Thẩm phán đã ban hành bản án, thách thức pháp luật, thách thức công lý nên rất cần có sự vào cuộc quyết liệt, mạnh mẽ, thể hiện chức năng, vai trò duy trì và bảo vệ và công lý của các cơ quan tố tụng (Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an) và chính quyền nhân dân.
Thứ sáu: Quy định đồng bộ việc kê khai, đăng ký tài sản, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký tài sản để sử dụng cho việc tra cứu, cung cấp thông tin tài sản.Tiến tới xây dựng một cơ sở dữ liệu thống nhất, toàn diện, kết nối thông tin của các cơ quan đăng ký tài sản khác nhau để Chấp hành viên có thể truy cập để thu thập thông tin, như vậy sẽ góp phần lớn trong việc giảm thời gian, chi phí xác minh điều kiện thi hành án dân sự và mang lại hiệu quả cao hơn.
Công tác xác minh điều kiện thi hành án là một công tác phức tạp, tốn rất nhiều thời gian và công sức của Chấp hành viên. Cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện và đảm bảo một cơ chế pháp lý cụ thể đối với công tác này./.
Hoàng Thị Thanh Hoa & Quang Minh
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên